BỘ NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG HÒA XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 46/2016/TB-LPQT
|
Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2016
|
THÔNG
BÁO
VỀ
VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Điều
56 của Luật Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Đông U-ru-goay về tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập và tài sản, ký tại Môn-tê-vi-đê-ô ngày 09 tháng 12 năm
2013, có hiệu lực từ ngày 26 tháng 7 năm 2016.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao
Hiệp định theo quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
|
TL. BỘ TRƯỞNG
KT.
VỤ TRƯỞNG
VỤ
LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ
PHÓ
VỤ TRƯỞNG
Nguyễn
Văn Ngự
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA
CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA
ĐÔNG U-RU-GOAY VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ ĐỐI VỚI
CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP VÀ TÀI SẢN
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Đông U-ru-goay,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh
đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập và tài sản,
Đã thỏa thuận dưới đây:
Điều
1
PHẠM
VI ÁP DỤNG
Hiệp định này áp dụng đối với các đối
tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
Điều
2
CÁC
LOẠI THUẾ BAO GỒM TRONG HIỆP ĐỊNH
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế
do một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của Nước đó đánh vào thu nhập và
tài sản, bất kể hình thức áp dụng của các loại thuế đó như thế nào.
2. Tất cả các loại thuế thu trên tổng thu nhập,
tổng tài sản hoặc những phần của thu nhập hoặc của tài sản bao gồm các loại thuế
đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản và các loại thuế
đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh nghiệp chi trả cũng như
các loại thuế đánh trên phần giá trị tài sản tăng thêm đều được coi là các loại
thuế đánh vào thu nhập và tài sản.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng trong
Hiệp định này cụ thể là:
a) tại Việt Nam:
i) thuế thu nhập cá nhân; và
ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
(dưới đây được gọi là “thuế Việt
Nam”); và
b) tại U-ru-goay:
i) thuế thu nhập doanh nghiệp
(Impuesto a las Rentas de las Actividades Económicas -IRAE);
ii) thuế thu nhập cá nhân (Impuesto a
las Rentas de las Personas Físicas -IRPF);
iii) thuế thu nhập đối với đối tượng
không cư trú (Impuesto a las Rentas de
los No Residentes -IRNR);
iv) thuế đối với hỗ trợ bảo hiểm xã hội
(Impuesto de Asistencia a la Seguridad Social -IASS); và
v) thuế tài sản (Impuesto al
Patrimonio -IP);
(dưới đây được gọi là “thuế
U-ru-goay”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối
với các loại thuế về cơ bản có tính chất tương tự hoặc giống như các loại thuế
trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để bổ sung, hoặc thay thế
các loại thuế hiện hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
thông báo cho nhau những thay đổi quan trọng trong các luật thuế của từng Nước.
Điều
3
CÁC
ĐỊNH NGHĨA CHUNG
1. Theo nội dung của Hiệp định này, trừ
trường hợp ngữ
cảnh
đòi hỏi có sự giải thích khác:
a) thuật ngữ “Việt Nam” có nghĩa là nước
Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa
Việt Nam; khi dùng theo nghĩa địa lý, thuật ngữ này có nghĩa là lãnh thổ đất liền,
các hải đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên đó, vùng biển ngoài lãnh hải,
bao gồm cả đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán phù hợp với
pháp luật quốc gia và luật pháp quốc tế;
b) thuật ngữ “U-ru-goay”
có nghĩa là lãnh thổ của nước Cộng hòa Đông U-ru-goay, và khi dùng theo nghĩa địa
lý có nghĩa là lãnh thổ nơi luật thuế được áp dụng, bao gồm vùng trời, vùng biển,
theo quyền chủ
quyền
và quyền tài phán của Urugoay phù hợp
với pháp luật quốc tế và luật pháp quốc gia;
c) thuật ngữ “Nước ký kết”
và “Nước ký kết kia” có nghĩa là Việt Nam hoặc U-ru-goay, tùy ngữ cảnh đòi hỏi;
d) thuật ngữ “đối tượng” bao gồm cá
nhân, công ty và bất kỳ tổ chức của nhiều đối tượng nào khác;
e) thuật ngữ “công ty” có nghĩa là bất
kỳ tổ chức công ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được coi là tổ chức công ty dưới
giác độ thuế;
f) thuật ngữ “doanh nghiệp của một Nước ký kết” và
“doanh nghiệp của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa là một doanh nghiệp được
điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết và một doanh nghiệp được
điều hành bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia;
g) thuật ngữ “đối tượng mang quốc tịch”,
liên quan đến một Nước ký kết, có nghĩa là:
i) bất kỳ cá nhân nào mang quốc tịch
hoặc có quyền công dân của một Nước ký kết; và
ii) bất kỳ pháp nhân, tổ chức hùn vốn hoặc
hiệp hội nào có tư cách theo các luật có hiệu lực tại một Nước ký kết;
h) thuật ngữ “vận tải quốc tế” có
nghĩa là bất kỳ sự vận chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay được thực hiện bởi một
doanh nghiệp của một Nước ký kết, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy
bay đó chỉ
hoạt
động giữa những địa điểm trong Nước ký kết kia; và
i) thuật ngữ “nhà chức trách có thẩm
quyền"’ có nghĩa là:
i) trong trường hợp của Việt Nam, là Bộ
trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền;
ii) trong trường hợp của
U-ru-goay, là Bộ trưởng Bộ Kinh tế và Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền.
2. Trong khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp
định này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại
Hiệp định này sẽ
có nghĩa
theo như định nghĩa tại luật của Nước đó, đối với các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng
vào thời điểm đó, bất kỳ nghĩa nào theo các luật thuế được áp dụng của Nước đó
sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó theo các luật khác của Nước đó, trừ
trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải
thích khác.
Điều
4
ĐỐI
TƯỢNG CƯ TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật
ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết” có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào, mà theo các luật
của Nước đó,
là
đối tượng chịu thuế căn cứ vào nhà
ở, nơi cư trú, trụ sở đăng ký hoặc thành lập, trụ sở điều hành hoặc bất kỳ tiêu chuẩn nào
khác có tính chất tương tự, và cũng bao gồm cả Nhà nước đó và cơ
quan chính quyền địa phương của Nhà nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này không bao gồm bất
kỳ đối tượng nào là đối tượng chịu thuế tại Nước đó chỉ đối với thu
nhập từ các nguồn tại Nước đó hoặc tài sản nằm tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản
1, khi một cá nhân là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, thì thân phận cư
trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
a) cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng
cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở thường trú; nếu cá nhân
đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư
trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn
(trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
b) nếu không thể xác định được Nước
nơi cá nhân đó có trung tâm các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có
nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó thường sống;
c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở
cả hai Nước hoặc không thường xuyên ở Nước nào, cá nhân đó sẽ được coi là đối
tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang quốc
tịch của cả
hai
Nước hoặc không mang quốc tịch của Nước nào, các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ giải quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp do các quy định tại
khoản 1, một đối tượng không phải là cá nhân, là đối tượng cư trú của cả hai Nước ký kết,
khi đó đối tượng trên sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà đối
tượng đó có trụ sở đăng ký hoặc thành lập.
Điều
5
CƠ
SỞ THƯỜNG TRÚ
1. Theo nội dung của Hiệp định này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một địa điểm kinh doanh cố định mà qua đó
doanh nghiệp thực hiện toàn bộ hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” chủ yếu
bao gồm:
a) trụ sở điều hành;
b) chi nhánh;
c) văn phòng;
d) nhà máy;
e) xưởng;
f) nhà kho; và
g) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc bất kỳ
địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác.
3. Thuật ngữ “cơ sở thường trú” cũng bao
gồm:
a) một địa điểm xây dựng, dự án xây dựng,
lắp ráp hoặc lắp
đặt hoặc các hoạt động giám sát có liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, dự án hoặc
các hoạt động này kéo dài hơn 183 ngày;
b) việc cung cấp các dịch vụ, bao gồm
cả dịch vụ tư vấn do một doanh nghiệp thực hiện thông qua những người làm công
hoặc những đối tượng khác được
doanh nghiệp giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động
mang tính chất nêu trên kéo dài (trong
cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại một Nước ký kết trong một giai
đoạn hoặc nhiều giai đoạn gộp lại hơn 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng;
c) một đối tượng tiến hành các hoạt động
tại một Nước ký kết liên quan đến việc thăm dò và khai thác tài nguyên thiên
nhiên có tại Nước ký kết đó sẽ được coi như là tiến hành kinh doanh thông qua một
cơ sở thường trú tại Nước ký kết đó.
4. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ được coi là không bao gồm:
a) việc sử dụng các phương tiện chỉ với
mục đích lưu kho hoặc trưng bày hàng hóa hoặc tài sản của doanh nghiệp;
b) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích lưu kho hoặc trưng bày;
c) việc duy trì kho hàng hóa hoặc tài
sản của doanh nghiệp chỉ với mục đích để cho doanh nghiệp khác gia công;
d) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích thu thập thông tin cho doanh nghiệp;
e) việc duy trì một địa điểm kinh
doanh cố định chỉ với mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất
chuẩn bị hoặc phụ trợ cho doanh nghiệp.
5. Mặc dù có các quy định tại khoản 1
và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7 -
hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
doanh nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối
với các hoạt động mà đối tượng đó thực hiện cho doanh nghiệp, nếu đối tượng
đó:
a) có và thường xuyên thực hiện tại Nước
đó thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh nghiệp, trừ khi các hoạt động
của đối tượng đó chỉ giới hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà những
hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một địa điểm kinh doanh cố định, sẽ
không làm cho địa điểm kinh doanh cố định đó trở thành một cơ sở thường trú
theo những quy định tại các khoản đó; hoặc
b) không có thẩm quyền trên, nhưng thường
xuyên duy trì tại Nước thứ
nhất
một kho hàng hóa hoặc tài sản, qua đó đối tượng này thường xuyên thực hiện việc
giao hàng hóa hoặc tài sản thay mặt cho doanh nghiệp.
6. Mặc dù có những quy định trên của
Điều này, một doanh nghiệp bảo hiểm của một Nước ký kết, trừ trường hợp
tái bảo hiểm, sẽ được
coi là có một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu doanh nghiệp đó thu phí
bảo hiểm trên lãnh thổ của Nước ký kết kia hoặc bảo hiểm các rủi ro tại đó thông qua một đối
tượng không
phải là một đại
lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 7.
7. Một doanh nghiệp của một Nước ký kết
sẽ không được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia nếu doanh nghiệp chỉ
thực hiện kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một đại lý môi giới, một đại
lý hoa hồng hoặc bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách độc lập, với điều kiện
những đối tượng này chỉ hoạt động trong khuôn khổ kinh doanh thông thường
của mình. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ hoặc hầu như toàn bộ
cho hoạt động đại diện cho doanh nghiệp đó và điều kiện được tạo ra hoặc áp đặt
giữa doanh nghiệp đó và đại lý đó trong quan hệ thương mại và quan hệ tài chính khác với
điều kiện được tạo ra giữa các doanh nghiệp độc lập, đại lý đó sẽ không được
coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản này.
8. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể
thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức khác) sẽ không làm cho bất kỳ
công ty nào trở thành cơ sở
thường
trú của công ty kia.
Điều
6
THU
NHẬP TỪ BẤT ĐỘNG SẢN
1. Thu nhập mà một đối tượng cư trú tại
một Nước ký kết thu được từ bất động sản (kể cả thu nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) đặt
tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có
nghĩa theo như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Trong mọi
trường hợp thuật ngữ này sẽ bao gồm cả những tài sản phụ kèm theo bất động sản,
đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp và lâm nghiệp, các quyền được
áp dụng theo các quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng bất động sản và các quyền được
hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định trả cho việc khai thác hoặc
quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu
thủy và máy bay sẽ không được coi là bất động sản.
3. Những quy định tại khoản 1 sẽ áp dụng đối
với thu nhập phát sinh từ việc trực
tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng dưới bất kỳ hình thức nào khác của bất động
sản.
4. Trường hợp việc sở hữu các cổ phần
hoặc các quyền công ty khác trong một công ty hoặc tín thác cho phép chủ sở hữu
của các cổ phần hoặc các quyền đó được hưởng bất động sản do công ty hoặc tín
thác đó nắm giữ, thu nhập từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng quyền
được hưởng đó dưới bất kỳ hình thức nào khác có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết
nơi có tài sản.
5. Những quy định tại các khoản
1, 3 và 4 cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp
và đối với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các
hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập.
Điều
7
LỢI
NHUẬN KINH DOANH
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của một
Nước ký kết sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó, trừ trường hợp doanh nghiệp có tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia.
Nếu doanh nghiệp
có hoạt động kinh
doanh theo cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp có thể bị đánh
thuế tại Nước kia, nhưng chỉ trên phần lợi nhuận phân bổ cho: a) cơ sở thường
trú đó; b) việc bán tại Nước kia hàng hóa hoặc tài sản cùng loại hoặc tương tự
như hàng hóa hoặc tài sản bán thông qua cơ sở thường trú đó; hoặc c) các hoạt động
kinh doanh khác được thực hiện tại Nước kia cùng loại hoặc tương tự với
các hoạt động được thực hiện thông qua cơ sở thường trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi
một doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú tại Nước kia, thì tại
mỗi Nước ký kết sẽ có những khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú
nói trên mà cơ sở đó có thể thu được, nếu đó là một doanh nghiệp riêng và tách biệt
cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng những điều kiện
như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được
coi là cơ sở thường trú.
3. Trong khi xác định lợi nhuận của một
cơ sở thường trú, cơ sở này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí phát sinh
phục vụ cho mục đích kinh doanh của cơ sở thường trú này, bao gồm cả chi phí điều
hành và chi phí quản lý chung cho dù chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở
thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác.
4. Trường hợp tại một Nước ký kết vẫn thường
xác định các khoản lợi nhuận được phân bổ cho một cơ sở thường trú trên cơ sở
phân chia tổng các khoản
lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung nào tại
khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân
chia theo thông lệ trên; tuy nhiên, phương pháp phân chia được chấp nhận sẽ có
kết quả phù hợp với
những nguyên tắc nêu tại Điều
này.
5. Theo nội dung các khoản trên, các khoản
lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được xác định theo cùng một
phương pháp giữa
các
năm trừ khi có đủ
lý
do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
6. Khi lợi nhuận bao gồm các khoản thu nhập
được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các
Điều đó sẽ không bị ảnh
hưởng bởi
những quy định tại Điều này.
Điều
8
VẬN
TẢI BIỂN VÀ VẬN TẢI HÀNG KHÔNG
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của một
Nước ký kết thu được từ hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc
tế sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Mặc dù có các quy định tại khoản 1, lợi
nhuận từ các nguồn của một Nước ký kết do một doanh nghiệp của Nước ký kết kia
thu được từ hoạt động của tàu thủy, máy bay trong vận tải quốc tế có thể bị
đánh thuế tại Nước thứ nhất nhưng thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá một trong
hai mức sau tùy theo mức nào thấp hơn:
a) 1 phần trăm tổng doanh thu thu được từ các nguồn tại
Nước đó; hoặc
b) 50 phần trăm mức thuế suất đối với
lợi nhuận cùng loại thu được trong các điều kiện tương tự tại Nước ký kết.
3. Những quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp
dụng cho các khoản lợi nhuận thu được từ việc tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh
hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
Điều
9
CÁC
DOANH NGHIỆP LIÊN KẾT
1. Khi
a) một doanh nghiệp của một Nước ký kết
tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn
vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
b) các đối tượng cùng tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp
của một Nước ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong cả hai trường hợp, trong mối
quan hệ tài chính và thương mại giữa hai doanh nghiệp trên có những điều kiện
được đưa ra hoặc áp đặt khác với điều kiện được đưa ra giữa các doanh
nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có những
điều kiện trên nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không thu được,
sẽ vẫn được tính vào các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế
tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các
khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các
khoản lợi nhuận mà một doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước
kia và những khoản lợi nhuận được tính vào như vậy là những khoản lợi nhuận lẽ
ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những điều kiện xác lập giữa
hai doanh nghiệp trên là những điều
kiện được xác lập giữa các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh
các khoản thuế tại Nước mình đối với các khoản lợi nhuận trên cho phù hợp. Khi
xác định sự điều chỉnh như vậy sẽ xem xét đến các quy định khác của Hiệp định
này và các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ tham khảo ý kiến
của nhau khi cần thiết.
Điều
10
TIỀN
LÃI CỔ PHẦN
1. Tiền lãi cổ phần do một công
ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ phần
đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là
đối tượng cư
trú và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần là đối
tượng cư trú
của
Nước ký kết kia thì
thuế
được tính khi đó sẽ không vượt quá:
a) 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ
phần nếu đối tượng thực hưởng là công ty (không phải là một tổ chức hùn vốn)
nắm giữ trực tiếp ít nhất 70 phần trăm vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
b) 10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần
trong tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh hưởng tới việc
đánh thuế công ty đối với khoản lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần “jouissance” hoặc các quyền lợi “jouissance”, cổ
phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi khác không phải là các khoản
cho vay, được hưởng
lợi
nhuận, cũng như thu nhập từ các quyền lợi công ty khác cùng chịu sự điều chỉnh
của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo luật của Nước nơi công ty
chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Những quy định tại khoản 1 và 2 sẽ
không áp dụng trong trường hợp đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần
là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết có tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng
cư trú, thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước
ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước
ký kết kia, và quyền nắm giữ cổ phần nhờ đó được hưởng tiền lãi cổ phần, có sự
liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường
hợp như vậy các quy định tại Điều 7 hoặc
Điều 15 của Hiệp định này, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Khi một công ty là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết có lợi nhuận hoặc thu nhập phát sinh từ Nước ký kết kia
thì Nước kia có thể không đánh thuế đối với những khoản tiền lãi cổ phần do
công ty này trả, trừ trường hợp những khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một
đối tượng cư trú của Nước kia, hoặc quyền nắm giữ cổ phần có các khoản tiền lãi cổ phần
được trả có sự liên hệ thực tế
với một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định tại Nước kia, đồng thời Nước
kia cũng không buộc các khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu
thuế đối với những
khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù những khoản tiền lãi cổ phần
được trả
hoặc
các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần các khoản lợi nhuận
hoặc thu nhập phát sinh tại Nước kia.
Điều
11
LÃI
TỪ TIỀN CHO VAY
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả
cho
một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, khoản lãi từ tiền cho
vay này cũng có thể bị
đánh thuế ở Nước ký kết nơi phát sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng
thực hưởng
các
khoản tiền lãi này là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia thì mức
thuế khi đó được
tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm của tổng số khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho
vay” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất
kỳ dạng nào, có hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp và có hoặc không có quyền được hưởng
lợi nhuận của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập từ chứng khoán của chính
phủ và thu nhập từ
trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng và giải thưởng kèm theo
các khoản chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó. Các khoản phạt
trả chậm sẽ không được coi là lãi từ tiền cho vay theo quy định của Điều này.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2
sẽ không được áp dụng nếu người thực
hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư trú tại một Nước ký kết, tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi từ tiền
cho vay thông qua một cơ sở thường trú tại Nước ký kết kia hoặc thực hiện tại
Nước ký kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định
tại Nước đó và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có sự liên hệ
thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động
kinh doanh nêu tại điểm c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này, các quy định tại
Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả là đối tượng cư trú của Nước
đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả lãi từ tiền cho vay có ở một Nước ký kết một
cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh
các khoản lãi từ tiền cho vay này, và khoản lãi từ tiền cho vay đó do cơ sở
thường trú hoặc cơ
sở cố
định đó chịu thì
dù
đối tượng có là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết hay không, khoản lãi từ tiền cho vay này sẽ vẫn được coi
là phát sinh ở Nước nơi cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó đóng.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa
đối tượng trả lãi và đối tượng hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các
đối tượng
khác,
khoản lãi từ tiền cho vay, liên quan đến khoản cho vay có số tiền lãi được trả
vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng đi vay và đối tượng thực hưởng khi
không có mối quan hệ này, thì khi đó, các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng
đối với các khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên. Trong
trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo luật của từng Nước ký
kết có xem xét tới các quy định khác của Hiệp định này.
Điều
12
TIỀN
BẢN QUYỀN
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một Nước
ký kết và được trả cho đối
tượng cư
trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền bản quyền đó cũng có
thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật của Nước này,
nhưng nếu đối tượng thực hưởng tiền bản quyền là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia
thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản
quyền.
3. Thuật ngữ “tiền bản quyền” được sử dụng tại Điều
này có nghĩa là các khoản thanh toán ở bất kỳ dạng nào được trả cho việc sử dụng,
hoặc quyền sử dụng, bất kỳ bản quyền tác giả của một tác phẩm văn học, nghệ thuật
hoặc khoa học, kể
cả phim
điện ảnh, hoặc các
loại phim hoặc băng dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, bất kỳ sáng chế, nhãn hiệu,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án,
công thức hoặc quy trình bí mật, hoặc trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng thiết bị công nghiệp,
thương mại hoặc khoa học hoặc trả cho thông tin liên quan đến các kinh nghiệm
công nghiệp, thương mại hoặc khoa học.
4. Những quy định tại các khoản 1 và 2 sẽ
không áp dụng nếu đối
tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một Nước ký
kết, tiến hành kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi có khoản tiền bản quyền phát
sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước đó hoặc thực hiện tại Nước ký
kết kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại
Nước ký kết kia, và
quyền hoặc tài sản có các khoản tiền bản quyền được trả có sự liên hệ thực tế với (a) cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó, hoặc với (b) các hoạt động kinh doanh nêu tại
điểm c) khoản 1
Điều 7. Trong trường hợp này các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền sẽ được coi là phát
sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền bản quyền là đối tượng cư trú của
Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước
ký kết, có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên
quan đến trách nhiệm trả tiền bản quyền đã phát sinh, và khoản tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú
hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc
biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng trên với
các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền, liên quan đến việc sử dụng quyền hoặc
thông tin có số
tiền
bản quyền được trả, vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền
và đối tượng
thực
hưởng khi không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ
chỉ áp dụng đối với khoản tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết
có xem xét đến các quy định khác của Hiệp định này.
Điều
13
PHÍ
DỊCH VỤ KỸ THUẬT
1. Phí dịch vụ kỹ thuật phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên, các khoản phí dịch vụ kỹ
thuật đó cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh, và theo các luật
của Nước này, nhưng nếu đối tượng thực hưởng phí dịch vụ kỹ thuật là đối
tượng cư trú của Nước ký
kết kia
thì mức thuế được tính khi đó sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền
phí dịch vụ kỹ
thuật.
3. Thuật ngữ “phí dịch vụ kỹ thuật” được sử
dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ hình thức nào được
trả cho một đối tượng, không phải là một người làm thuê của đối tượng trả tiền
phí dịch vụ, vì các dịch vụ mang tính chất kỹ thuật, quản lý hoặc tư vấn.
4. Các quy định tại khoản 1 và 2 sẽ không
áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền phí dịch vụ kỹ thuật, là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh ở Nước ký kết
kia nơi có khoản tiền dịch vụ kỹ thuật phát sinh, thông qua một cơ sở thường
trú có tại Nước ký kết kia hoặc tiến hành tại Nước ký kết kia các hoạt động dịch
vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định, và phí dịch vụ kỹ thuật được trả có sự
liên hệ thực tế với (a) cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó hoặc với (b) các
hoạt động kinh doanh nêu tại điểm c) khoản 1 Điều 7. Trong trường hợp này các quy định của
Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Phí dịch vụ kỹ thuật sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi đối tượng trả tiền phí dịch vụ kỹ thuật chính
là đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi một đối tượng trả tiền phí dịch vụ
kỹ thuật, là hoặc không là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có ở một Nước
ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến trách nhiệm trả
tiền phí dịch vụ kỹ thuật đã phát sinh và tiền phí dịch vụ kỹ thuật đó do cơ sở
thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu thì khoản tiền phí dịch vụ
kỹ thuật này sẽ vẫn được coi là phát sinh ở Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc
cơ sở cố định đó.
6. Trường hợp vì mối quan hệ đặc biệt giữa
đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa cả hai đối tượng
trên với các đối tượng khác, khoản tiền phí dịch vụ kỹ thuật vượt quá, vì bất cứ lý
do gì, khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả tiền và đối tượng thực hưởng khi không
có mối quan hệ đặc
biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ trên. Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt
sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết có xem xét đến các quy định
khác của Hiệp định này.
Điều
14
THU
NHẬP TỪ CHUYỂN NHƯỢNG TÀI SẢN
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại Điều 6 và có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển nhượng động sản là
một phần của tài sản kinh doanh của một cơ sở thường trú mà một doanh nghiệp của
một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia, hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của
một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để tiến hành hoạt
động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả thu nhập từ chuyển nhượng cơ sở thường trú
đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh
nghiệp) hoặc cơ sở cố định đó, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập do một doanh nghiệp cư trú của
một Nước ký kết thu được từ
việc chuyển nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế hoặc
từ chuyển nhượng động sản gắn liền với hoạt động của các tàu thủy hoặc máy
bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó.
4. Thu nhập từ việc chuyển nhượng các cổ
phần trong vốn có phần của một công ty hoặc các quyền công ty khác trong một
công ty bao gồm lợi ích
trong một công ty hợp
danh, tín thác hoặc di sản là đối tượng
cư trú của một Nước ký kết có thể bị đánh thuế tại Nước đó.
5. Thu nhập thu được từ chuyển nhượng bất
kỳ tài sản nào khác với
những tài sản đã được nêu tại khoản 1, 2, 3 và 4 sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước ký kết nơi đối tượng chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
Điều
15
DỊCH
VỤ CÁ NHÂN ĐỘC LẬP
1. Thu nhập do một cá nhân
là đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các dịch vụ ngành nghề hoặc
các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó
trừ các trường hợp dưới đây, khi đó các khoản thu nhập đó cũng có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia:
a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có tại
Nước ký kết kia một cơ sở cố định để thực hiện các hoạt động này; trong trường
hợp đó, chỉ phần thu nhập phân bổ cho cơ sở cố định đó có thể bị đánh thuế
tại Nước ký kết kia; hoặc
b) Nếu đối tượng đó có mặt tại Nước ký
kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hoặc
vượt quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết
thúc trong năm tài chính có liên quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập
phát sinh từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia
có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao
gồm chủ yếu những hoạt động khoa học, văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng
dạy mang tính chất độc lập như các hoạt động độc lập của các thầy thuốc, luật
sư, kỹ sư, kiến trúc sư,
nha sĩ và kế toán viên.
Điều
16
DỊCH
VỤ CÁ NHÂN PHỤ THUỘC
1. Thể theo các quy định tại các Điều 17,
19 và 20 các khoản tiền lương, tiền công, và các khoản tiền thù lao tương tự
khác do một đối tượng
cư
trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị đánh thuế tại
Nước đó, trừ khi lao động làm công; của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký
kết kia. Nếu
công
việc làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động đó có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Mặc dù có những quy định tại khoản 1,
tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm
công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất nếu:
a) người nhận tiền công có mặt tại Nước
kia trong một khoảng
thời gian hoặc nhiều
khoảng thời gian gộp lại không
quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn 12 tháng nào bắt đầu hoặc kết thúc trong
năm tài chính có liên quan, và
b) chủ lao động hoặc đối tượng đại diện
chủ lao động trả tiền công lao động không phải là đối tượng cư trú tại Nước kia, và
c) số tiền thù lao không phải phát
sinh tại một cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định mà chủ lao động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có những quy định trên của Điều
này, tiền công thu được từ lao động làm công được thực hiện trên tàu thủy hoặc
máy bay vận hành trong vận tải quốc tế có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi
doanh nghiệp điều hành tàu thủy hoặc máy bay là đối tượng cư trú.
Điều
17
THÙ
LAO GIÁM ĐỐC
Các khoản thù lao cho giám đốc và các
khoản thanh toán tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết nhận
được với tư cách là thành viên của Ban giám đốc của một công ty là đối tượng cư
trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
Điều
18
NGHỆ
SĨ VÀ VẬN ĐỘNG VIÊN
1. Mặc dù có những quy định tại các Điều
15 và 16, thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được với tư
cách người biểu diễn như diễn viên sân khấu, điện ảnh, phát thanh hoặc
truyền hình, hoặc nhạc công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động
cá nhân của mình thực hiện tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế ở Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các
hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu diễn hoặc vận động viên nhưng không
được trả cho bản thân người
biểu
diễn hoặc vận động
viên, mà trả cho một đối tượng khác thì thu nhập này có thể bị đánh thuế tại Nước
ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động
viên, mặc dù đã
có
những quy định tại các Điều 7, 15 và 16.
3. Mặc dù đã có những quy định tại các
khoản 1 và 2, thu nhập do người biểu diễn hoặc vận động viên là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động trình diễn tại Nước ký kết
kia theo một chương trình trao đổi văn hóa giữa Chính phủ của cả hai Nước
ký kết sẽ được miễn
thuế
tại Nước ký kết kia, nếu khoản thu nhập đó thu được trực tiếp hoặc gián tiếp,
toàn bộ hoặc chủ yếu từ các quỹ công của Nước
ký kết kia hoặc một chính quyền địa
phương của Nước đó.
Điều
19
TIỀN
LƯƠNG HƯU
Thể theo các quy định tại khoản 2 Điều
20, tiền lương
hưu
và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều
20
PHỤC
VỤ CHÍNH PHỦ
1. a) Tiền lương, tiền công và các khoản
tiền thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu, do một Nước ký kết hoặc chính
quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối với việc phục vụ cho Nhà nước hoặc
chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác nêu trên sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước
ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia và nếu cá nhân này
là đối tượng cư
trú
của Nước kia,
đồng
thời:
i) là đối tượng mang quốc tịch của Nước
kia; hoặc
ii) không trở thành đối tượng cư trú của Nước
kia chỉ đơn thuần vì thực hiện những công việc trên.
2. a) Bất kỳ khoản tiền lương hưu và các
khoản tiền thù lao khác do một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương của Nước đó hoặc
do các quỹ
của
những cơ quan này lập ra trả cho
một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước đó.
b) Tuy nhiên, khoản tiền lương hưu và
các khoản tiền thù lao này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân
này là đối tượng cư trú và là đối tượng mang quốc tịch của Nước kia.
3. Những quy định tại các Điều 16, 17, 18
và 19 sẽ áp dụng đối với những khoản tiền lương, tiền công, tiền lương hưu và
các khoản tiền thù lao tương tự khác đối với các công việc liên quan đến một
hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi một Nước ký kết hoặc chính quyền địa phương
của Nước
đó.
Điều
21
SINH
VIÊN VÀ THỰC TẬP SINH
Những khoản tiền mà một sinh viên hoặc
thực tập sinh kinh doanh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập hoặc
đào tạo mà người sinh viên hoặc thực tập sinh này ngay trước khi đến một Nước
ký kết đang hoặc đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có mặt tại
Nước thứ nhất chỉ với mục
đích trang trải chi phí sinh hoạt, học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế
tại Nước đó, với điều kiện những khoản tiền đó phát sinh từ các nguồn ở bên ngoài Nước đó.
Điều
22
THU
NHẬP KHÁC
1. Các khoản thu nhập của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa được đề cập đến tại những
Điều trên của Hiệp định này, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không
áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được định nghĩa tại khoản
2 Điều 6, nếu đối tượng
nhận thu nhập là đối tượng cư trú của một Nước ký kết, có tiến hành hoạt động kinh doanh tại
Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước kia, hoặc thực hiện
tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định
tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập được
trả có sự liên hệ
thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định như trên. Trong trường hợp như
vậy những quy định tại Điều 7 hoặc Điều 15, tùy từng trường hợp sẽ được áp dụng.
3. Mặc dù có những quy định tại các
khoản 1 và 2, các khoản
thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết chưa được đề cập đến tại các Điều
trên của Hiệp định này và phát sinh tại Nước ký kết kia cũng có thể bị đánh thuế tại Nước
kia.
Điều
23
THUẾ
ĐỐI VỚI TÀI SẢN
1. Tài sản là bất động sản nêu tại Điều
6, do một đối tượng
cư
trú của một Nước ký kết sở hữu và có tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế
tại Nước kia.
2. Tài sản là động sản là một phần của
tài sản kinh
doanh của một cơ sở thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại
Nước ký kết kia hoặc là động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một
Nước ký kết có tại Nước ký kết kia để thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập có thể
bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Tài sản là các tàu thủy và máy bay
do doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế và tài sản
là động sản liên quan đến hoạt động của các tàu thủy và máy bay
đó sẽ chỉ bị đánh thuế
tại
Nước ký kết đó.
4. Mọi thành phần khác của tài sản của một đối
tượng cư trú của một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
Điều
24
CÁC
BIỆN PHÁP XÓA BỎ VIỆC ĐÁNH THUẾ HAI LẦN
1. Tại Việt Nam, việc đánh thuế
hai lần sẽ được xóa bỏ như sau:
a) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập hoặc sở hữu tài sản, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm mà theo
các luật của U-ru-goay và phù hợp với Hiệp định này có thể bị đánh thuế
tại U-ru-goay, khi đó Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đối với thu nhập
hoặc tài sản một khoản tiền bằng số tiền thuế đã nộp tại U-ru-goay.
Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số thuế Việt Nam đối với thu
nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm hoặc tài sản được tính phù hợp với các
luật và quy định về thuế của Việt Nam.
b) Trường hợp một đối tượng cư trú của
Việt Nam nhận được thu nhập hoặc sở hữu tài sản mà theo các quy định của Hiệp định
này sẽ chỉ bị đánh thuế tại U-ru-goay, trong khi tính số thuế đối với thu nhập
còn lại hoặc tài sản của đối tượng cư trú đó tại Việt Nam, Việt Nam có thể xét
đến phần thu nhập hoặc tài sản được miễn thuế.
2. Tại U-ru-goay, việc đánh thuế hai lần
sẽ được xóa bỏ như sau:
a) Các đối tượng cư trú của U-ru-goay
nhận được thu nhập mà phù hợp với các luật của Việt Nam và theo các quy định của
Hiệp định này, là đối tượng chịu thuế tại Việt Nam, có thể khấu trừ số thuế đã
nộp vào bất kỳ khoản thuế U-ru-goay phải nộp nào đối với cùng loại thu nhập, theo
các quy định được áp dụng của luật của U-ru-goay. Quy định tương tự cũng áp
dụng đối với tài sản mà phù hợp với các luật của Việt Nam và theo các quy định
của Hiệp định này, là đối tượng chịu thuế tại Việt Nam; thuế đối với tài sản đã
nộp có thể được khấu trừ vào bất
kỳ khoản thuế U-ru-goay phải nộp nào đối với cùng loại tài sản, theo các quy định
được áp dụng của luật của U-ru-goay. Tuy nhiên, số thuế được khấu trừ sẽ không
vượt quá số thuế U-ru-goay đối với thu nhập hoặc tài sản, như đã được tính trước
khi cho phép trừ.
b) Trường hợp một đối tượng cư trú của
U-ru-goay nhận được thu nhập hoặc sở hữu tài sản được miễn thuế tại U-ru-goay theo
bất kỳ quy định nào của Hiệp định này, trong khi tính số thuế đối với thu nhập
còn lại hoặc tài sản của đối tượng cư trú đó, U-ru-goay có thể xét đến phần thu
nhập hoặc tài sản được miễn thuế.
3. Theo nội dung của các khoản
1 và 2 của Điều này, số thuế phải nộp tại các Nước ký kết sẽ được coi là bao gồm cả số thuế đáng ra
đã phải nộp nếu không có
quy
định nhằm khuyến khích phát triển kinh tế và đầu tư hiệu quả.
Điều
25
KHÔNG
PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ
1. Các đối tượng mang quốc tịch của một
Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước
ký kết kia bất kỳ chế độ thuế nào hoặc bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến chế độ
thuế đó khác với hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc
có thể áp dụng cho những đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong cùng các
hoàn cảnh như nhau, nhất là trên phương diện cư trú. Mặc dù có các quy định tại
Điều 1, quy định này cũng áp dụng đối với các đối tượng không phải là đối tượng
cư trú của một hoặc cả hai Nước ký kết.
2. Chế độ thuế áp dụng đối với một cơ sở
thường trú của một doanh nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ
không kém thuận lợi hơn tại Nước ký kết kia so với chế độ thuế áp dụng cho các
doanh nghiệp của Nước ký kết kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự. Quy định
này sẽ không được giải
thích
là buộc một Nước ký kết phải dành cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ khoản
miễn thu cá
nhân, khoản miễn và giảm thuế nào vì lợi ích của thân phận dân sự hoặc trách
nhiệm gia đình mà Nước ký kết đó cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
3. Trừ trường hợp áp dụng các quy định tại
khoản 1 Điều 9, khoản
6 Điều 11, khoản 6 Điều 12 hoặc khoản 6 Điều 13, lãi từ tiền cho vay, tiền bản
quyền, phí dịch vụ kỹ thuật và các
khoản thanh toán khác do một doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia, khi xác định các khoản lợi nhuận chịu thuế của doanh
nghiệp đó, sẽ được trừ theo cùng các điều kiện như thể các khoản tiền đó được
trả cho đối tượng
cư trú của Nước thứ nhất. Tương tự như vậy, bất kỳ một khoản nợ nào của một
doanh nghiệp của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia khi xác định tài sản chịu thuế của doanh nghiệp đó, sẽ được trừ
theo cùng các điều kiện như thể các khoản nợ đó được giảm trừ đối với một đối
tượng cư trú của Nước thứ nhất.
4. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết
có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước
thứ nhất bất kỳ chế độ thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế
đó khác với hoặc nặng hơn chế độ thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc
có thể được áp dụng cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ
nhất.
5. Các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng
đối với các loại thuế bao gồm trong Hiệp định.
Điều
26
THỦ
TỤC THỎA THUẬN SONG PHƯƠNG
1. Trường hợp một đối tượng nhận thấy rằng việc giải
quyết của một hoặc cả hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải
nộp thuế không đúng với các quy định của Hiệp định này, đối tượng này có thể giải
trình trường hợp của mình với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi
đối tượng đó là đối tượng cư trú hoặc, nếu trường hợp của đối tượng đó thuộc
khoản 1 của Điều 25, với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết nơi đối
tượng đó mang
quốc
tịch, mặc dù trong các luật trong nước của hai Nước đã quy định về chế độ xử lý
khiếu nại. Trường hợp đó phải được giải trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần
thông báo đầu tiên dẫn đến chế độ
thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như
việc khiếu nại là hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó không thể đi đến một giải
pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết
kia để cùng giải quyết trường hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích
tránh đánh thuế không phù hợp với quy định của Hiệp định này. Mọi thỏa thuận
đạt được sẽ được thực hiện không căn cứ vào những giới hạn thời gian ghi trong
nội luật của hai Nước ký kết.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cùng nhau cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó
khăn hoặc vướng mắc nảy sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng
Hiệp định này. Nhà
chức
trách có thẩm quyền của hai Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ việc
đánh thuế hai lần trong các trường hợp không được quy định tại Hiệp định.
4. Nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với nhau nhằm mục đích đạt
được một thỏa thuận theo nội dung những khoản trên đây.
Điều
27
TRAO
ĐỔI THÔNG TIN
1. Các nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau
các thông tin dự đoán có thể cần thiết cho việc triển khai thực hiện những quy định của
Hiệp định này hoặc việc quản lý hoặc thực thi nội luật của từng Nước ký kết liên
quan đến các loại
thuế được đánh bởi các Nước ký kết, hoặc chính quyền địa phương
trong phạm vi việc đánh thuế không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin
không bị giới hạn bởi các Điều 1 và 2.
2. Mọi thông tin do một Nước ký kết nhận
được theo khoản 1 sẽ được giữ bí mật giống như thông tin thu nhận
theo nội luật của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc
các cơ quan chức năng
(bao
gồm cả tòa án và
các cơ quan hành chính) có liên quan đến việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định
các khiếu nại về các loại thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung
trên. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ chỉ sử dụng các thông tin
đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể
cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc
trong các quyết định của tòa án.
3. Không có trường hợp nào mà các quy
định tại khoản 1 và khoản 2 được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
a) thực hiện các biện pháp hành chính
khác với pháp luật hoặc thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc
của Nước ký kết kia;
b) cung cấp các thông tin không thể đạt được
theo các luật hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước ký
kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
c) cung cấp các thông tin có thể làm
tiết lộ bí mật về mua bán, kinh doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề
nghiệp hoặc các quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc tiết
lộ chúng có thể trái với chính sách nhà nước (chính sách công cộng).
4. Nếu thông tin do một Nước ký kết yêu cầu phù hợp với Điều này,
Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập thông tin của mình để có được các
thông tin theo yêu cầu,
mặc
dù Nước kia có thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của
mình. Nghĩa vụ được quy định tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản
3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho phép một
Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ vì Nước ký kết đó không có lợi
ích trong nước đối với các thông tin như vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định
tại khoản 3 sẽ không cho phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp
thông tin chỉ vì thông tin do một ngân hàng, tổ chức tài chính, đối tượng được chỉ định
hoặc đối tượng với tư cách đại lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì
thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
Điều
28
CÁC
THÀNH VIÊN CƠ QUAN ĐẠI DIỆN NGOẠI GIAO HOẶC CƠ QUAN ĐẠI DIỆN LÃNH SỰ
Không nội dung nào tại Hiệp định này sẽ
ảnh hưởng đến
các ưu đãi về
thuế
của thành viên cơ
quan đại diện ngoại giao hoặc cơ quan đại diện lãnh sự theo các nguyên tắc chung của luật pháp
quốc tế hoặc các quy
định tại các hiệp định đặc biệt.
Điều
29
HIỆU
LỰC
1. Từng Nước ký kết sẽ thông
báo cho Nước ký kết kia bằng văn bản thông qua
đường ngoại giao việc hoàn thành các thủ tục cần thiết theo luật
pháp của nước mình để
Hiệp
định có hiệu lực. Hiệp định này sẽ có hiệu lực vào ngày thứ mười lăm sau ngày nhận
được thông báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành:
a) đối với các khoản thuế khấu trừ tại
nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau
ngày 01 tháng 01 tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực, và trong các
năm dương lịch tiếp theo; và
b) đối với các khoản thuế khác:
i) tại Việt Nam, liên quan đến thu nhập,
lợi nhuận, giá trị tăng thêm hoặc tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 01
tháng 01 tiếp sau năm dương lịch Hiệp định có hiệu lực, và trong các năm dương
lịch tiếp theo; và
ii) tại U-ru-goay, đối với các giai đoạn
tính thuế bắt đầu vào
ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 trong năm dương lịch đầu tiên tiếp sau
năm dương
lịch
Hiệp định này có hiệu lực.
Điều
30
CHẤM
DỨT HIỆU LỰC
Hiệp định này sẽ vẫn còn hiệu lực
cho tới khi một Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường
ngoại giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi cho Nước ký kết kia
văn bản thông báo chấm dứt hiệu lực
Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi
kết thúc bất kỳ năm dương lịch nào bắt đầu từ sau
thời hạn 5 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp
như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực
thi hành:
a) đối với các loại thuế khấu trừ tại
nguồn thu trên các khoản thu nhập chịu thuế nhận được vào ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 của
năm dương lịch nhận được thông báo kết thúc hiệu lực, và trong các năm dương lịch
tiếp theo, và
b) đối với các loại thuế khác:
i) tại Việt Nam, liên quan đến thu nhập,
lợi nhuận, giá trị tăng thêm hoặc tài sản phát sinh vào ngày hoặc sau ngày 01
tháng 01 tiếp sau năm dương
lịch
nhận được thông
báo
kết thúc hiệu lực, và trong các năm dương lịch tiếp theo; và
ii) tại U-ru-goay, đối với các giai đoạn
tính thuế bắt
đầu vào
ngày hoặc sau ngày 01 tháng 01 trong năm dương lịch đầu tiên tiếp sau
năm dương lịch nhận được thông báo kết thúc hiệu lực.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới
đây, được sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
LÀM tại Monterdeo ngày 09 tháng 12 năm
2013, thành hai bản bằng tiếng Việt,
tiếng Tây Ban Nha và tiếng Anh, tất cả các văn bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có
sự giải thích khác
nhau, văn bản tiếng
Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
THAY MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY MẶT
CHÍNH PHỦ
NƯỚC
CỘNG HÒA ĐÔNG
U-RU-GOAY
LUIS ALMAGRO
Bộ trưởng Ngoại giao
|