BỘ
GIÁO DỤC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
9-TT
|
Hà
Nội, ngày 28 tháng 2 năm 1986
|
THÔNG TƯ
CỦA
BỘ GIÁO DỤC SỐ 9-TT NGÀY 28-2-1986 HƯỚNG DẪN THỰC HIỆN QUY CHẾ THI
VÀ XÉT TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG CƠ SỞ
Ngày 28 tháng 2 năm
1986, Bộ Giáo dục ban hành Quy chế thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở theo
Quyết định số 219-QĐ. Căn cứ vào điều 37 của Quy chế, Bộ ban hành Thông tư
hướng dẫn thực hiện Quy chế thi và xét tốt nghiệp áp dụng đối với kỳ thi xét
tốt nghiệp phổ thông cơ sở như sau:
I.
NGUYÊN TẮC CHUNG
Trong các điều 1,
2, 3 của Quy chế nói về vị trí, tính chất, ý nghĩa, mục đích và những căn cứ để
đánh giá kết quả tốt nghiệp của kỳ thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở, cần
chú ý một số điểm sau:
1. Sau khi học
hết bậc học phổ thông cơ sở, mỗi học sinh phải qua một kỳ thi và xét tốt
nghiệp. Đó là hình thức tổng kiểm tra, đánh giá học sinh sau quá trình giáo dục
(đào tạo) ở bậc học phổ thông cơ sở. Sự kiểm tra, đánh giá này không chỉ được thực
hiện trong nội bộ nhà trường mà nó được thực hiện dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn
của các cấp quản lý giáo dục, dưới sự lãnh đạo, giám sát của các cấp bộ đảng và
chính quyền, và sự tham gia của các lực lượng xã hội ngoài nhà trường; đồng
thời tuân theo các thể lệ, tiêu chuẩn do Bộ Giáo dục quy định tại Quy chế thi
và xét tốt nghiệp. Vì vậy, kỳ thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở là sự đánh
giá của Nhà nước một cách toàn diện, thống nhất, khách quan.
2. Thi và xét
tốt nghiệp phổ thông cơ sở là sự tiếp tục và hoàn thiện việc đánh giá trình độ
được giáo dục của học sinh trong cả quá trình bậc học phổ thông cơ sở theo mục
tiêu đào tạo. Do đó, kết quả học tập và rèn luyện của học sinh cuối bậc học
phổ thông cơ sở và kết quả các bài làm của học sinh trong kỳ thi đều là những
căn cứ quan trọng để xét tốt nghiệp. Kết quả học tập và rèn luyện của học sinh
ở lớp cuối cấp II là căn cứ để:
- Xét điều kiện dự thi;
- Kết hợp với kết quả kỳ thi để
xét công nhận tốt nghiệp bậc học phổ thông cơ sở.
3. Điều 4 của
Quy chế khẳng định vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của tập thể sư phạm nhà
trường trong việc đánh giá chất lượng giáo dục toàn diện của học sinh, trong
việc tổ chức coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp. Đồng thời điều này cũng
khẳng định vai trò của các tổ chức Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Đội
thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh trong việc phối hợp, góp phần cùng nhà
trường, Hội đồng thi và xét tốt nghiệp thực hiện tốt Quy chế thi và xét tốt
nghiệp của Bộ Giáo dục. Nhà trường, Hội đồng thi và xét tốt nghiệp phải có
trách nhiệm kết hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức nói trên giáo dục
đoàn viên, đội viên, học sinh trong nhà trường về mục đích, động cơ, tinh thần
học tập đúng đắn, ý thức, thái độ thi cử đúng đắn, nghiêm túc, v.v... để kỳ thi
và xét tốt nghiệp được tiến hành một cách có kết quả, an toàn và chu đáo.
II.
ĐỐI TƯỢNG VÀ ĐIỀU KIỆN DỰ THI VÀ XÉT TỐT NGHIỆP
1.
Ngoài 2 đối tượng nói ở điều 5, không phải xét trường hợp nào khác.
2. Những học
sinh nói trong điểm 2 của điều 5 là những học sinh đã học hết lớp cuối cấp II
của bậc học phổ thông cơ sở, đã dự thi nhưng không tốt nghiệp hoặc chưa dự thi
vì thiếu điều kiện dự thi mà không tiếp tục học lại. Những học sinh này là
đối tượng dự thi và xét tốt nghiệp.
3. Về điều
kiện dự thi và xét tốt nghiệp nêu ở điều 6 và điều 7, cần chú ý mấy điểm sau:
a) Việc xác nhận học sinh đã học
hết chương trình của tất cả các lớp ở cấp II phải được ghi đầy đủ trong học bạ
và trước mắt chỉ cần xét các lớp cấp II. Học bạ phải ghi đầy đủ kết quả điểm số
các môn học và kết quả loại các mặt giáo dục của từng năm học trong cấp học, cụ
thể là lớp 6, 7, 8 , 9 đối với miền Bắc và lớp 6, 7, 8 đối với miền Nam. Những
hiện tượng như tẩy, xoá, chữa học bạ, việc cho lên lớp không đúng Quy chế,
chuyển trường và nhận vào học không đúng quy định v.v.. đều coi là không đủ
điều kiện dự thi và xét tốt nghiệp. Nếu Hội đồng thi và xét tốt nghiệp phát
hiện những hiện tượng thiếu điều kiện dự thi và xét tốt nghiệp thì phải lập
biên bản đình chỉ thi, hoặc đã thi xong thì phải lập biên bản đình chấm bài hoặc
không xét công nhận tốt nghiệp.
b) Việc xét cả 4 điều kiện dự
thi và xét tốt nghiệp nêu ở điều 6 được tiến hành đối với từng học sinh và phải
cân nhắc kỹ, nhằm đánh giá chính xác, gây tác dụng giáo dục tốt. Chống các hiện
tượng tiêu cực, đối phó.
Điểm 2 trong điều 6 quy định số
ngày nghỉ học trong năm học lớp cuối cấp không quá 45 ngày có nghĩa là học sinh
nghỉ quá số ngày này (dù nghỉ một lần hay nhiều lần cộng lại) đều không được dự
thi và xét tốt nghiệp. Điều kiện này đòi hỏi học sinh phải cố gắng chuyên cần
học tập.
Điểm 3 và điểm 4 trong điều 6 là
những điểm quy định về điều kiện dự thi và xét tốt nghiệp, trong đó, tất cả các
mặt giáo dục đều phải đạt kết quả như đã quy định. Điều này có tác dụng thúc
đẩy nhà trường phải tích cực chăm lo, giáo dục, giảng dạy và học sinh phải
không ngừng phấn đấu, tu dưỡng, học tập và rèn luyện về mọi mặt theo mục tiêu
đào tạo.
Về mặt xếp loại văn hoá, vẫn thực
hiện theo Thông tư số 44-TT của Bộ, gồm 4 loại giỏi, khá, trung bình và còn
yếu. Riêng loại "còn yếu" phải phân ra thành hai mức độ: yếu (nếu cố
gắng vượt bậc thì có thể vươn lên trình độ trung bình được, cụ thể là những
diện nêu trong điểm 4 của điều 6) và kém (những diện không đạt tiêu chuẩn như
đã nêu trong điểm 4 của điều 6). Trong điều kiện dự thi (về mặt văn hoá) được
quy định trong Quy chế chỉ chấp nhận diện yếu. Còn diện kém không được dự thi.
c) Việc xác nhận vào đơn xin dự
thi và xét tốt nghiệp đối với những học sinh các năm học trước nói trong điểm
1, 2 của điều 7:
- Nếu học sinh ở nhà tự ôn tập
và làm việc giúp gia đình, thì do Uỷ ban Nhân dân xã (phường, thị trấn) nơi học
sinh cư trú xác nhận;
- Nếu học sinh đã được tuyển
dụng làm việc tại một cơ quan hoặc đơn vị, cơ sở sản xuất, thì do thủ trưởng cơ
quan hoặc đơn vị phụ trách xác nhận.
Đối với những học sinh các năm
học trước chưa dự thi vì thiếu điều kiện về mặt văn hoá (hoặc bảo vệ và rèn
luyện thân thể) hoặc đã dự thi nhưng chưa tốt nghiệp thì chỉ cần có ý kiến xác
nhận về tư cách đạo đức trong thời gian không tiếp tục học ở trường và đề nghị
cho dự thi và xét tốt nghiệp của cấp chính quyền, hoặc của thủ trưởng đơn vị đã
nêu trên xác nhận và đóng dấu vào đơn xin dự thi và xét tốt nghiệp.
Đối với những học sinh các năm
học trước chưa dự thi vì không đủ điều kiện về mặt đạo đức hoặc lao động, ngoài
việc có ý kiến đề nghị như đã nêu trên, còn phải được chính quyền địa phương
(xã, phường, thị trấn) hoặc cơ quan đơn vị đang quản lý xác nhận vào đơn về ý
thức và thái độ trong việc chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước,
về tinh thần, ý thức lao động hoặc công tác xã hội.
d) Để tạo điều kiện thuận tiện
cho những học sinh các năm học trước (không đủ điều kiện dự thi về mặt văn hoá)
mà không tiếp tục học lại, thì những học sinh này chỉ cần được nhà trường đã tiếp
nhận đơn xin dự thi và xét tốt nghiệp tiến hành kiểm tra lại văn hoá. Nhà
trường này sẽ quy định và thông báo cho từng học sinh biết về những môn học
phải kiểm tra lại và ngày, giờ đến trường dự kiểm tra cùng với học sinh đang
học trong đợt kiểm tra cuối học kỳ II theo các quy định của quy chế hiện hành.
Việc thông báo này chậm nhất là 15 ngày trước khi tiến hành kiểm tra học kỳ II
của trường. Kết quả điểm của các môn được kiểm tra lại sẽ thay thế cho điểm
trung bình cả năm của môn học đó ở năm học trước (đã ghi trong học bạ) để xét
điều kiện dự thi về mặt văn hoá. Hiệu trưởng phải ký xác nhận việc bổ sung điểm
thi lại này vào học bạ và xác nhận đủ điều kiện dự thi về văn hoá, đồng thời để
làm căn cứ cho việc xin dự thi lại các năm sau (nếu học sinh còn phải thi lại).
e) Nói chung, hiện nay, Quy chế
không quy định về độ tuổi dự thi đối với học sinh đang học, vì những trường hợp
học sinh thiếu (hoặc thừa) tuổi dự thi không chỉ do học sinh và gia đình học
sinh gây nên, mà còn do sai sót của nhà trường trong việc nhận học sinh vào
học, nhất là ở lớp đầu bậc học phổ thông cơ sở... Do vậy đối với những trường
hợp này, nếu không phải là sai sót do học sinh và gia đình học sinh gây ra, thì
vẫn cho dự thi, đồng thời nhà trường phải tiến hành kiểm điểm, quy trách nhiệm
cụ thể và có biện pháp ngăn chặn, chấm dứt hiện tượng này kể từ lần nhận học
sinh vào học ngay ở năm học tiếp sau đó.
Mục a, điểm 1 của điều 7 quy
định về độ tuổi dự thi và xét tốt nghiệp của những học sinh cũ là không quá 20
tuổi. Đây là độ tuổi tối đa của một học sinh được phép theo học trong bậc học
phổ thông cơ sở, kể cả một năm được học lại theo Quy chế hiện hành của Bộ Giáo
dục và ba năm đi nghĩa vụ quân sự.
g) Đối với những trường hợp học
sinh không đủ điều kiện dự thi mà chưa kết luận được là do bản thân các em gây
nên như giấy tờ, thủ tục... không đầy đủ và nhà trường không quyết định được
thì phải báo cáo với Phòng giáo dục xét quyết định. Nếu Phòng giáo dục không
quyết định được thì phải báo cáo Sở Giáo dục. Trong khi chờ đợi cấp trên trả lời
mà đã đến ngày thi, thì vẫn cho thi để tránh thiệt thòi cho học sinh. Nhưng
cuối cùng cấp trên xét thấy không đủ điều kiện dự thi, thì đình không chấm bài
hoặc đình việc xét tốt nghiệp.
h) Đối với những học sinh không
đủ điều kiện dự thi và xét tốt nghiệp, nhà trường phải gửi công văn báo cho gia
đình học sinh biết trước ngày thi là 10 ngày (theo thời gian quy định) để gia
đình học sinh hiểu rõ lý do và đồng tình với nhà trường cùng phối hợp giáo dục
tiếp.
Thời hạn và các thủ tục đăng ký
dự thi và xét tốt nghiệp đối với diện học sinh cũ, nhà trường phải công bố sớm
để học sinh và gia đình học sinh biết và có đủ thời gian chuẩn bị, nộp đơn theo
đúng hạn định (đã quy định tại điều 7).
III.
HỒ SƠ THÍ SINH DỰ THI VÀ XÉT TỐT NGHIỆP
1.
Điều 8 quy định về hồ sơ thi và xét tốt nghiệp của học sinh. Các hồ sơ này phải
được nhà trường hoàn thành đầy đủ chậm nhất trước ngày thi 5 ngày, bao gồm các
giấy tờ sau đây:
a) Bảng ghi tên, ghi điểm theo
đúng mẫu quy định trong tài liệu nghiệp vụ thi, lập thành ba bản.
b) Học bạ chính (không phải là
bản sao).
c) Bản sao giấy khai sinh.
d) Giấy chứng nhận thuộc diện
chính sách và diện chiếu cố nếu có.
e) Thẻ học sinh do nhà trường có
học sinh học cấp.
Riêng hồ sơ của học sinh cũ
(diện nêu ở điểm 2 của điều 5) gồm các giấy tờ sau:
a) Đơn xin dự thi và xét tốt
nghiệp do học sinh tự viết, kèm theo xác nhận và đề nghị của chính quyền địa
phương (xã, phường, thị trấn) hoặc cơ quan, đơn vị quản lý.
b) Học bạ chính
c) Bản sao giấy khai sinh
d) Giấy chứng nhận đã kiểm tra
lại và xác nhận đủ điều kiện dự thi về mặt văn hoá do nhà trường (nơi học sinh
đăng ký dự thi) cấp. Chỉ những học sinh các năm học trước không đủ điều kiện dự
thi về mặt văn hoá mới cần có giấy chứng nhận này. Giấy chứng nhận này có giá
trị sử dụng cho kỳ thi và xét tốt nghiệp ở các năm học sau (nếu học sinh còn
phải thi lại).
e) Thẻ học sinh do nhà trường
nơi học sinh đăng ký dự thi cấp. Nếu học sinh đã có thẻ do trường cũ cấp, thì
phải có thêm xác nhận của trường nơi học sinh đăng ký dự thi vào thẻ đó.
2. Khi thực
hiện điều 8 quy định về hồ sơ thi và xét tốt nghiệp của học sinh, cần chú ý một
số điểm dưới đây:
a) Bản sao giấy khai sinh phải
do Uỷ ban Nhân dân từ cấp xã, phường hoặc thị trấn trở lên cấp. Những chữ số
ngày, tháng, năm sinh, họ, tên, tên đệm. v.v...ghi trong giấy khai sinh phải
bảo đảm chính xác, thống nhất. Trường hợp thất lạc, hoặc là nội dung ghi không
thống nhất, cần được kịp thời thiết lập hoặc điều chỉnh lại. Những nội dung
thiết lập hoặc điều chỉnh lại phải do Uỷ ban Nhân dân xã, phường hoặc thị trấn xác
nhận. Nhà trường căn cứ vào kết quả xác nhận lại ở giấy khai sinh của học sinh
để làm lại các giấy tờ và hồ sơ khác trong kỳ thi và xét tốt nghiệp.
b) Giấy chứng nhận thuộc diện
chính sách và diện chiếu cố để xét lấy tốt nghiệp thêm, hoặc để xét đặc cách
tốt nghiệp phải bảo đảm các thủ tục sau:
- Giấy chứng nhận là con liệt sĩ
(bố hoặc mẹ là liệt sĩ) do Phòng thương binh xã hội cấp huyện (quận, thị) trở
lên cấp;
- Giấy chứng nhận đã đi nghĩa vụ
quân sự do Huyện đội (hoặc cấp tương đương) cấp;
- Giấy chứng nhận đã đi thanh
niên xung phong, phục vụ quốc phòng do các cấp từ Huyện đoàn (hoặc cấp tương
đương) trở lên cấp;
- Giấy chứng nhận đã đi vùng
kinh tế mới theo chủ trương của Nhà nước do Uỷ ban Nhân dân từ cấp huyện (hoặc
cấp tương đương) trở lên cấp;
- Giấy chứng nhận đã đi dự các
cuộc thi quốc tế (ngoại ngữ, điền kinh...) do Bộ Giáo dục hoặc cơ quan Nhà nước
trung ương đã tuyển chọn cấp;
- Học sinh ốm trước khi thi,
không tham dự được kỳ thi và xét tốt nghiệp phải có hồ sơ, bệnh án, giấy chứng
nhận của cơ quan y tế hoặc của bệnh viện từ cấp huyện (hoặc tương đương) trở
lên;
- Đối với diện học sinh bị ốm
hoặc có sự cố đột xuất xảy ra trong lúc đang thi, không thể tiếp tục thi như
nếu bị ốm trong lúc đang làm bài thi, thì cán bộ y tế phục vụ kỳ thi và Chủ
tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp xác nhận; nếu bị ốm lúc ở nhà, phải đi bệnh
viện điều trị, thì bệnh viện đó cấp giấy xác nhận; Nếu có sự cố đột xuất xảy ra
trong lúc đang thi như bị tai nạn hoặc có người thân trong gia đình như bố, mẹ
đẻ, anh, chị em ruột chết, phải có biên bản của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp,
đồng thời phải có xác nhận của Uỷ ban Nhân dân xã (hoặc cấp tương đương) nơi
học sinh cư trú hoặc của cơ quan y tế (hoặc bệnh xá, bệnh viện) nơi học sinh đã
điều trị.
c) Sau khi chấp thuận cho những
học sinh cũ được dự thi và xét tốt nghiệp, nhà trường nơi tiếp nhận hồ sơ, lập
danh sách những học sinh này. Danh sách những học sinh này phải được ghi vào
bảng ghi tên, ghi điểm của phòng thi cuối cùng của Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp, hoặc thành lập bảng ghi tên, ghi điểm riêng cho những thí sinh này, nếu
danh sách học sinh đang học ở phòng thi cuối cùng của bảng ghi tên, ghi điểm đã
đủ số lượng quy định.
d) Danh sách của tất cả các học
sinh dự xét đặc cách tốt nghiệp phải lập thành bảng ghi tên, ghi điểm riêng
(gồm 3 bản), kèm theo giấy tờ chứng nhận đã quy định ở trên.
IV. MÔN
THI, NGÀY THI, CHƯƠNG TRÌNH THI VÀ ĐỀ THI
1.
Về môn thi, ngày thi hàng năm, Bộ sẽ thông báo bằng công văn tới Sở Giáo dục,
đồng thời cũng được công bố qua đài phát thanh, truyền hình và báo chí trước
ngày thi 45 ngày.
2. Nội dung,
chương trình thi là chương trình toàn cấp học, song chủ yếu là chương trình lớp
cuối cấp II. Trong đó, Bộ Giáo dục có hướng dẫn những trọng tâm. Các Sở cần có
biện pháp tổ chức, chỉ đạo các trường tiến hành ôn tập tốt cho học sinh theo
hướng dẫn đó đối với tất cả các môn học. Tránh tình trạng học lệch, chỉ dồn vào
những môn thi.
3. Bộ Giáo dục
có hướng dẫn riêng cho các Sở việc ra đề thi và cách chấm để các Sở căn cứ vào
đó tổ chức ra đề thi, hướng dẫn chấm và biểu cho điểm. Cần thực hiện hướng dẫn
đó một cách đúng đắn, nghiêm túc. Nếu trong tình hình địa phương có vấn đề phải
làm khác với điều Bộ đã hướng dẫn, thì Sở cần thỉnh thị và chỉ khi Bộ đã chấp
thuận chính thức bằng văn bản mới được thực hiện.
4. Điều 11 của
Quy chế quy định Giám đốc Sở Giáo dục chịu trách nhiệm toàn bộ về việc tổ chức
ra đề thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Sở Giáo dục trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh,
thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương ra quyết định thành lập Hội đồng ra đề
thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở, gồm các thành phần sau:
- Chủ tịch Hội đồng: Giám đốc Sở
Giáo dục;
- Phó chủ tịch Hội đồng: Phó
giám đốc Sở hoặc Trưởng phòng phổ thông của Sở;
- Thư ký Hội đồng: Phó phòng
hoặc 1 cán bộ chuyên môn Phòng phổ thông của Sở;
- Các uỷ viên của Hội đồng: Các
cán bộ chuyên môn của Sở có năng lực, am hiểu tình hình dạy và học ở trường phổ
thông cơ sở, có phẩm chất đạo đức tốt và có tình thần trách nhiệm cao. Dự thảo
đề thi mỗi môn sẽ do một tổ gồm từ 2 đến 3 uỷ viên phụ trách.
Nhiệm vụ, nguyên tắc và lề lối
làm việc của Hội đồng ra đề thi thực hiện như đã nêu tại Chỉ thị số 14-CT ngày
21-4-1981 của Bộ Giáo dục về công tác làm đề thi tốt nghiệp phổ thông cơ sở.
V.
ĐIỀU KIỆN TỐT NGHIỆP VÀ TIÊU CHUẨN XẾP LOẠI TỐT NGHIỆP
Quy chế quy định
điều kiện tốt nghiệp và tiêu chuẩn xếp loại tốt nghiệp, cơ bản dựa trên nguyên
tắc kết hợp việc đánh giá xếp loại cả năm học về tất cả các mặt giáo dục ở năm
học về tất cả các mặt giáo dục ở năm học lớp cuối cấp với điểm của các bài thi.
Khi vận dụng các điều kiện và tiêu chuẩn tốt nghiệp cần chú ý một số vấn đề sau
đây:
1. Điều kiện
tốt nghiệp nào cũng xét tới hai yêu cầu:
a) Kết quả xếp loại các mặt giáo
dục;
b) Điểm các bài thi.
Nếu điều kiện nào không nêu yêu
cầu về kết quả xếp loại 1 hay 2 mặt giáo dục nào đó, có nghĩa là kết quả xếp
loại mặt giáo dục đó phải đạt yêu cầu tối thiểu như đã nêu ở điều kiện dự thi
và xét tốt nghiệp.
Ví dụ 1: Điểm 1, điều 13 quy
định: "Những học sinh được xếp loại cả năm về mặt đạo đức, lao động, bảo
vệ và rèn luyện thân thể ở lớp cuối cấp II từ trung bình trở lên và có điểm
trung bình cộng các môn thi từ 5 điểm trở lên, trong đó không có bài thi nào bị
điểm 0, sẽ được công nhận tốt nghiệp thêm", có nghĩa là kết quả xếp loại
về mặt văn hoá phải thuộc một trong các diện đã nêu trong điểm 4 của điều 6.
Ví dụ 2: Điểm 2, điều 13 quy
định: "Những học sinh được xếp loại cả năm ở lớp cuối cấp II về các mặt
đạo đức, văn hoá, lao động từ khá trở lên và có điểm trung bình cộng các môn
thi từ 4,5 trở lên, trong đó không có bài thi nào bị điểm 0, sẽ được công nhận
tốt nghiệp thêm", có nghĩa là kết quả xếp loại về mặt bảo vệ và rèn luyện
thân thể phải đạt từ trung bình trở lên.
2. Trong bất
cứ trường hợp nào, học sinh có một bài thi bị điểm 0, đều không được xét tốt
nghiệp (thẳng hoặc thêm). Trong bất kỳ trường hợp nào, học sinh có một bài
thi bị điểm 1 hoặc 2, mặc dù điểm trung bình cộng các môn thi đạt từ 5 điểm trở
lên đều không được xét tốt nghiệp thẳng, mà chỉ được xét tốt nghiệp thêm. Điều
này có tác dụng thúc đẩy học sinh học tập đồng đều hơn về các môn học, không
học lệch về một môn nào.
3. Những học
sinh đạt kết quả tốt nghiệp được xếp thành 4 loại giỏi, khá, trung bình và
thường theo các tiêu chuẩn đã nêu trong điều 15. Kết quả xếp loại tốt
nghiệp cần được ghi đầy đủ và rõ ràng vào một cột riêng trong bảng ghi tên, ghi
điểm, trong học bạ và trong bằng tốt nghiệp của từng học sinh.
Khi vận dụng các tiêu chuẩn nói
trong điều 15 cần chú ý một số điểm sau:
- Trong tiêu chuẩn xếp loại
giỏi, quy định chỉ có một bài thi đạt từ 6 điểm trở lên, có nghĩa là mỗi bài
thi còn lại đều phải đạt từ 7 điểm trở lên.
- Trong tiêu chuẩn xếp loại khá,
Quy định tại mục a chỉ có một bài thi đạt từ 5 điểm trở lên, có nghĩa là mỗi
bài thi còn lại đều phải đạt từ 6 điểm trở lên; Quy định tại mục b chỉ có 2 bài
thi đạt từ 5 điểm trở lên, trong đó chỉ có một bài là văn hoặc toán, có nghĩa
là mỗi bài thi còn lại đều phải đạt từ 6 điểm trở lên.
4. Đối với
những học sinh được công nhận tốt nghiệp vào loại giỏi, Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp phải lập danh sách để Sở Giáo dục cấp giấy khen.
5. Những học
sinh đã dự kỳ thi và xét tốt nghiệp các năm học trước, nhưng không tốt nghiệp
và những học sinh năm học trước không được phép dự thi và xét tốt nghiệp, mà
không có điều kiện học lại, nay được phép dự thi sẽ được công nhận tốt nghiệp
và xếp loại tốt nghiệp theo quy định sau:
a) Chỉ được xếp thành hai loại
tốt nghiệp thẳng (loại trung bình) và tốt nghiệp thêm (loại thường).
b) Nếu đạt tiêu chuẩn 1 của điều
12 trở lên (được xếp loại cả năm ở lớp cuối cấp II về tất cả các mặt giáo dục
từ trung bình trở lên và có điểm trung bình cộng các môn thi từ 5,0 trở lên,
trong đó không có bài thi nào bị điểm dưới 3), thì được công nhận là tốt nghiệp
thẳng và xếp loại trung bình.
c) Nếu đạt điểm trung bình cộng
các môn thi từ 5,0 trở lên, không có bài thi nào bị điểm 0, thì được công nhận
tốt nghiệp thêm và xếp loại thường.
6. Những học
sinh được đặc cách tốt nghiệp đều không xếp loại tốt nghiệp và trong bằng tốt
nghiệp cần ghi rõ "được đặc cách tốt nghiệp, không xếp loại".
7. Việc xét
tốt nghiệp thêm ngoài Quy chế nói trong điều 14 : chỉ khi tỷ lệ tốt nghiệp của
toàn tỉnh quá thấp, bất bình thường, thì mới đặt vấn đề xét đặc cách tốt nghiệp
thêm ngoài Quy chế. Khi đó, Sở Giáo dục phải đề xuất phương án (hạ điểm
trung bình cộng các môn thi, mở rộng điều kiện xét tốt nghiệp thêm) báo cáo,
thỉnh thị Bộ bằng văn bản và chỉ sau khi Bộ có văn bản chấp thuận mới được tiến
hành xét đặc cách tốt nghiệp thêm. Việc mở rộng điều kiện xét tốt nghiệp thêm
ngoài quy chế, có thể đề xuất vấn đề chung cho toàn tỉnh, hoặc chỉ áp dụng
riêng cho một khu vực đặc biệt. Thời hạn báo cáo xin lấy tốt nghiệp thêm ngoài
Quy chế chậm nhất là 30 ngày sau ngày thi cuối cùng.
8. Việc giải
quyết đơn khiếu nại về bài thi của học sinh.
Việc coi thi, chấm thi, xét tốt
nghiệp phổ thông cơ sở được thực hiện tại trường học dưới sự chỉ đạo, thanh
tra, giám sát của cấp trên. Tập thể sư phạm, đứng đầu là Hiệu trưởng ở mỗi
trường học được trao đầy đủ trách nhiệm, quyền hạn trong việc đánh giá chất
lượng giáo dục toàn diện của học sinh và tổ chức việc thi và xét tốt nghiệp
trong trường mình theo Quy chế hướng dẫn của Bộ Giáo dục. Vì vậy các công việc
của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp, về căn bản bảo đảm sự chính xác, khách
quan, công bằng trong việc đánh giá chất lượng được giáo dục của học sinh trong
quá trình học lớp cuối cấp và qua kỳ thi và xét tốt nghiệp cuối bậc học phổ
thông cơ sở. Vì thế, Quy chế thi của Bộ chỉ đặt vấn đề giải quyết đơn khiếu nại
về bài thi của những học sinh không tốt nghiệp do có sự bất bình thường trong
khi làm bài thi mà thôi. Cụ thể là:
- Những đơn khiếu nại được Hội
đồng chấm lại thu nhận và đưa ra xét là có người đứng tên, có địa chỉ đúng và
rõ ràng, có nội dung cụ thể và dẫn chứng xác đáng. Chỉ nhận và xét đơn khiếu
nại xin chấm lại bài thi của những học sinh có đủ tất cả các điều kiện dưới đây:
Điểm bài thi khiếu nại thấp hơn
điểm trung bình cả năm của môn học đó ở lớp cuối cấp II từ 3 điểm trở lên;
Điểm trung bình cộng các bài thi
phải đạt từ 4 điểm trở lên;
Mỗi học sinh khiếu nại chỉ được
khiếu nại nhiều nhất về điểm bài thi của hai môn trong tổng số môn thi.
- Thu nhận và đưa ra xét những
đơn khiếu nại có dẫn chứng xác đáng về cộng nhầm điểm thi và chấm thiếu tờ giấy
thi đã nộp;
- Các đơn khiếu nại về các vấn
đề khác thì do Phòng giáo dục hoặc Ban Thanh tra Sở Giáo dục xem xét và giải
quyết;
- Trường phổ thông cơ sở chịu
trách nhiệm thu nhận đơn khiếu nại của học sinh dự kỳ thi và xét tốt nghiệp phổ
thông cơ sở rồi nộp ngay về Phòng giáo dục ngay sau khi hết thời hạn nhận đơn.
Thời hạn và nơi nhận đơn phải được thông báo cho học sinh và cha mẹ học sinh
biết ngay khi phổ biến Quy chế thi và xét tốt nghiệp;
- Việc chấm lại bài thi của học
sinh khiếu nại sẽ do Hội đồng chấm lại đảm nhiệm. Khi chấm lại, cần chú ý mấy
điểm sau:
Bảo vệ bí mật phách bài thi chấm
lại;
Chỉ điều chỉnh lên hoặc xuống
những bài thi do giáo viên chấm chênh lệch từ 2 điểm cao hơn hoặc thấp hơn so
với biểu điểm đối với môn văn, và 1 điểm đối với các môn thi khác.
Trường hợp giáo viên chấm thi
cộng sai hoặc sót, ghi chép điểm sai thì phải chữa lại cho chính xác.
VI.
TỔ CHỨC, CHỈ ĐẠO KỲ THI VÀ XÉT TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG CƠ SỞ
1.
Điều 19 quy định mỗi trường phổ thông cơ sở thành lập một Hội đồng thi và xét
tốt nghiệp gồm các thành phần như đã quy định. Nếu thiếu giáo viên coi thi,
thì cử thêm giáo viên dạy cấp I của trường tham gia Hội đồng và chỉ làm nhiệm
vụ coi thi hành lang. Hội đồng nay do Uỷ ban Nhân dân huyện, quận, thị xã ra
quyết định thành lập. Điều 20 quy định trong trường hợp khó khăn đặc biệt có
thể thành lập Hội đồng thi và xét tốt nghiệp theo cụm trường hoặc cử thêm cán
bộ có năng lực ở nơi khác đến giúp nhà trường thực hiện việc thi và xét tốt
nghiệp và việc tổ chức Hội đồng thi và xét tốt nghiệp theo kiểu này chỉ được áp
dụng sau khi đã được Sở Giáo dục chấp thuận. Như vậy, để thực hiện nghiêm túc
các quy định nêu ở điều 19 và điều 20, Sở Giáo dục cần cân nhắc kỹ từng trường
hợp do Phòng Giáo dục đề nghị mà quyết định.
2. Điều 21 quy
định nhiệm vụ của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp. Các thành viên của Hội
đồng trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình, phải tuyệt đối phục tùng sự phân
công của chủ tịch Hội đồng. Việc phân công các thành viên của Hội đồng làm
nhiệm vụ coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp phải theo nguyên tắc sau đây:
a) Giáo viên coi thi là giáo
viên đang dạy các lớp cấp II của trường và mỗi phòng thi phải có hai giáo viên
coi thi bên trong phòng thi và 1 giáo viên làm nhiệm vụ coi hành lang. Trong
trường hợp thiếu người coi thi,
thì cử thêm giáo viên dạy cấp I
làm nhiệm vụ coi thi hành lang (như đã nêu trên).
b) Mỗi tổ chấm thi về một môn ít
nhất phải có hai giáo viên, trong đó nhất thiết phải có một giáo viên đang dạy
môn học đó ở lớp cuối cấp II, các thành viên khác của tổ chấm là giáo viên đang
dạy các lớp ở cấp II, đồng thời phải bảo đảm mỗi bài thi có ít nhất hai giáo
viên chấm.
c) Tổ trưởng chấm thi từng môn
phải là người đã hoặc đang làm tổ trưởng, tổ phó hoặc nhóm trưởng nhóm chuyên
môn ở cấp II của trường.
3. Trong
trường hợp cần thiết, nhà trường (nơi đặt địa điểm thi và xét tốt nghiệp) đề
nghị Uỷ ban Nhân dân xã (hoặc cấp tương đương) nơi trường đóng tiến hành tổ
chức Ban bảo vệ và phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp gồm các thành phần Phó chủ
tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp làm Trưởng ban, đại diện công an, y tế của
xã, đại diện Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Đội thiếu niên tiền phong
Hồ Chí minh của trường và đại diện một số ngành có liên quan làm uỷ viên.
Ban bảo vệ và phục vụ kỳ thi và
xét tốt nghiệp chịu trách nhiệm bảo vệ trật tự vòng ngoài của địa điểm thi
(ngoài phạm vi trách nhiệm của giáo viên coi thi, chấm thi), săn sóc sức khoẻ
của học sinh và giáo viên trong quá trình tiến hành kỳ thi và xét tốt nghiệp,
và phục tùng sự điều hành chung của Chủ tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp. Uỷ
ban Nhân dân xã, phường, thị trấn phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để Ban bảo
vệ và phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp thực hiện được nhiệm vụ của mình.
4. Toàn bộ các
bước và quy trình từ khâu chuẩn bị đến việc coi thi, chấm thi, về cơ bản vẫn
thực hiện như đã hướng dẫn ở tài liệu nghiệp vụ làm công tác thi tốt nghiệp phổ
thông cơ sở số 461-PT1-2 ngày 9-3-1983 của Bộ.
5. Điều 25 quy
định việc thành lập Ban chỉ đạo và kiểm tra kỳ thi và xét tốt nghiệp, Hội đồng
chấm lại bài thi, Tổ kiểm tra và giám sát Hội đồng thi và xét tốt nghiệp của
huyện, quận, thị xã. Điều 23 quy định việc thành lập Ban chỉ đạo và kiểm
tra kỳ thi và xét tốt nghiệp của tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung
ương. Khi thực hiện các điều này, cần chú ý một số vấn đề như sau:
a) Ban chỉ
đạo và kiểm tra kỳ thi và xét tốt nghiệp của tỉnh (thành phố, đặc khu trực
thuộc Trung ương) gồm các thành phần sau:
- Trưởng ban: Giám đốc Sở Giáo
dục;
- Phó ban: 1 phó giám đốc Sở phụ
trách phổ thông cơ sở.
Về quyền hạn:
- Yêu cầu Ban lãnh đạo Hội đồng
thi và xét tốt nghiệp báo cáo tình hình công việc đã làm và đang làm; xem xét
toàn bộ hồ sơ, sổ sách của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp, xem các bài thi của
Hội đồng đã chấm,...; khi cần thiết có thể vào kiểm tra các phòng thi hoặc yêu
cầu Hội đồng chấm lại các bài thi mà Ban chỉ đạo và kiểm tra nhận thấy chấm
không đúng với hướng dẫn chấm và biểu cho điểm của Sở Giáo dục (sau khi đã
thông báo cho Ban lãnh đạo Hội đồng thi và xét tốt nghiệp biết).
- Trong trường hợp phát hiện
những sai phạm nghiêm trọng về Quy chế thi và xét tốt nghiệp (như để lộ đề thi
và hướng dẫn chấm trước khi thi, thực hiện không đúng các thủ tục và lịch thi
các môn, gian lận, quay cóp trắng trợn và phổ biến, chấm sai với hướng dẫn chấm
và biểu điểm hàng loạt bài...) thì Ban chỉ đạo và kiểm tra có quyền:
Yêu cầu Hội đồng thi huỷ bỏ bài
thi làm theo đề chính thức, tổ chức thi lại theo đề dự bị đúng với lịch thi;
Yêu cầu Hội đồng thi hoãn việc
chấm bài thi để nghiên cứu lại hướng dẫn chấm và biểu điểm hoặc báo cáo và đề
nghị với lãnh đạo Phòng và Sở không công nhận một phần hoặc toàn bộ kết quả kỳ
thi và xét tốt nghiệp của Hội đồng.
- Đề nghị mức độ khen thưởng và
kỷ luật đối với cán bộ, giáo viên, nhân viên làm công tác thi và xét tốt
nghiệp, học sinh dự thi với các cấp có thẩm quyền quyết định khen thưởng hoặc
thi hành kỷ luật như quy định trong Quy chế của Bộ Giáo dục.
- Các Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp, Hội đồng chấm lại bài thi phải thực hiện nghiêm túc ý kiến của Ban chỉ
đạo và kiểm tra thi và xét tốt nghiệp các cấp. Nếu có sự chưa nhất trí giữa Hội
đồng với Ban chỉ đạo và kiểm tra, thì hai bên phải lập biên bản và báo cáo về
Phòng, Sở Giáo dục xét giải quyết; nếu cần có thể báo cáo về Bộ Giáo dục xét và
giải quyết. Trong khi chờ đợi ý kiến của Phòng, Sở hoặc các Bộ, các Hội đồng
thi và xét tốt nghiệp phải thực hiện nghiêm túc ý kiến của Ban chỉ đạo và kiểm
tra thi và xét tốt nghiệp.
b) Trong
khi trình Uỷ ban Nhân dân huyện, quận, thị xã ra quyết định thành lập Ban chỉ
đạo và kiểm tra kỳ thi và xét tốt nghiệp của địa phương mình, Phòng Giáo dục
cần lựa chọn thêm một số cán bộ, giáo viên giúp việc để Ban chỉ đạo và kiểm tra
thi và xét tốt nghiệp cử về các Hội đồng thi và xét tốt nghiệp làm công tác kiểm
tra và giám sát trong suốt quá trình coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp nhằm
giúp các Hội đồng thi và xét tốt nghiệp thực hiện đúng Quy chế.
Tuỳ theo quy mô lớn hay nhỏ, mỗi
Hội đồng thi và xét tốt nghiệp sẽ được Ban chỉ đạo và kiểm tra thi và xét tốt
nghiệp cử đến 1 tổ kiểm tra và giám sát gồm từ 2 đến 3 người.
Số cán bộ, giáo viên chọn lựa
thêm này do các trường phổ thông cơ sở cử lên gồm 1 Phó hiệu trưởng và từ 1 đến
2 người khác là tổ trưởng chuyên môn hoặc giáo viên có kinh nghiệm và do Phòng
Giáo dục quy định cho từng trường.
Tổ kiểm tra và giám sát này có
nhiệm vụ và quyền hạn:
- Giám sát việc thực hiện Quy
chế thi và xét tốt nghiệp.
- Uỷ viên thường trực: Trưởng
(hoặc Phó) phòng phổ thông của Sở.
- Một số uỷ viên do một số cán
bộ chuyên môn của Sở, một số trưởng, phó phòng giáo dục của huyện (quận, thị
xã) và một số hiệu trưởng trường phổ thông cơ sở của tỉnh (thành, đặc khu) do
Sở trưng tập.
Ban chỉ đạo và kiểm tra kỳ thi
và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở của huyện (quận, thị xã) gồm các thành phần
sau:
- Trưởng ban: Trưởng Phòng giáo
dục;
- Phó ban: 1 Phó phòng giáo dục
phụ trách phổ thông cơ sở;
- Uỷ viên thường trực; Tổ trưởng
chuyên môn phụ trách phổ thông cơ sở của Phòng Giáo dục;
- Một số uỷ viên; cán bộ chuyên
môn của Phòng Giáo dục và một số Hiệu trưởng, Phó hiệu trưởng, Tổ trưởng chuyên
môn cấp II ở một số trường do Phòng trưng tập.
c) Ban chỉ
đạo và kiểm tra thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở của tỉnh (thành phố, đặc
khu trực thuộc Trung ương) và của huyện (quận, thị xã) có nhiệm vụ và quyền hạn
sau đây:
Về nhiệm vụ:
- Tổ chức, chỉ đạo, kiểm tra
toàn bộ công việc của kỳ thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở của địa phương
mình (từ khâu chuẩn bị đến khâu coi thi, chấm thi...) theo đúng những điều đã
quy định trong Quy chế thi và xét tốt nghiệp của Bộ;
- Kiểm tra, xem xét việc thực
hiện Quy chế thi và xét tốt nghiệp của các Hội đồng thi và xét tốt nghiệp trong
địa phương và công việc chỉ đạo thi và xét tốt nghiệp của cấp dưới;
- Phát hiện những hiện tượng làm
sai hoặc vi phạm Quy chế và kiến nghị cách giải quyết;
- Thu thập ý kiến của học sinh
dự thi, các cán bộ, giáo viên làm công tác coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp,
cơ quan, đoàn thể địa phương, nhân dân và cha mẹ học sinh đối với kỳ thi và xét
tốt nghiệp.
Báo cáo với Uỷ ban Nhân dân và
cơ quan quản lý giáo dục cấp trên về công tác tiến hành của Ban và tình hình
chấp hành Quy chế thi và xét tốt nghiệp của các đơn vị được kiểm tra;
- Kiểm tra và soát xét lại toàn
bộ kết quả thi và xét tốt nghiệp của các Hội đồng thi và xét tốt nghiệp (nếu là
Ban chỉ đạo và kiểm tra thi và xét tốt nghiệp của huyện, quận, thị xã) và kết
quả thi và xét tốt nghiệp của các huyện, quận, thị xã (nếu là Ban chỉ đạo và
kiểm tra của tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc Trung ương). Việc kiểm tra và
xét duyệt kết quả thi và xét tốt nghiệp phải được tiến hành dưới sự chỉ đạo
chặt chẽ của Trưởng ban và phải bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể, chính xác,
nhanh gọn theo đúng Quy chế của Bộ Giáo dục, của các Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp, phát hiện những hiện tượng làm sai hoặc vi phạm Quy chế của cán bộ,
giáo viên và học sinh trong việc thi và xét tốt nghiệp, đồng thời kiến nghị với
Hội đồng về cách giải quyết để bảo đảm tính nghiêm túc của kỳ thi và xét tốt nghiệp
và báo cáo kịp thời với cấp trên. Do đó, các cán bộ này được quyền tham gia
toàn bộ các hoạt động về việc coi thi, chấm thi và xét tốt nghiệp và phải chịu
trách nhiệm bảo đảm bí mật về các công việc của hội đồng như một thành viên của
Hội đồng thi và xét tốt nghiệp.
Trong trường hợp hai bên có sự
không nhất trí thì một mặt mọi hoạt động của kỳ thi và xét tốt nghiệp vẫn cứ
cho tiến hành theo sự chỉ đạo của Chủ tịch Hội đồng, mặt khác phải báo cáo ngay
toàn bộ tình hình về Phòng Giáo dục và Ban chỉ đạo và kiểm tra của huyện (quận,
thị xã) để xin ý kiến giải quyết.
- Thu thập ý kiến, dư luận của
học sinh, cán bộ, giáo viên, cơ quan, đoàn thể địa phương, nhân dân và cha mẹ
học sinh đối với kỳ thi và xét tốt nghiệp.
- Viết báo cáo về Phòng Giáo dục
và Ban chỉ đạo và kiểm tra của huyện, quận, thị xã về công tác tiến hành kiểm
tra, giám sát của tổ và tình hình thực hiện Quy chế của Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp trong toàn bộ quá trình coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp.
d) Hội đồng
chấm lại bài thi nói trong điều 26 do Uỷ ban Nhân dân huyện, quận, thị xã ra
quyết định thành lập, gồm:
- Chủ tịch Hội đồng: Trưởng
(hoặc Phó) Phòng Giáo dục;
- Phó chủ tịch Hội đồng: Phó
phòng Giáo dục hay tổ trưởng tổ chuyên môn theo dõi phổ thông cơ sở của phòng;
- Thư ký Hội đồng: 1 cán bộ theo
dõi chuyên môn phổ thông cơ sở của phòng;
- Giáo viên chấm thi bộ môn của
Hội đồng chấm lại phải là những giáo viên giỏi, có trình độ cao về chuyên môn,
có kinh nghiệm giảng dạy và làm công tác chấm thi, có tinh thần trách nhiệm và
có phẩm chất đạo đức tốt của trường phổ thông cơ sở. Tuỳ theo số lượng đơn
khiếu nại về bài thi của học sinh nhiều hay ít mà bố trí số cặp chấm cần thiết
cho từng môn để có thể hoàn thành nhanh gọn việc chấm bài lại trong 1 tuần lễ
sau khi có quyết định thành lập Hội đồng.
VII.
VIỆC DUYỆT KẾT QUẢ TỐT NGHIỆP, CẤP BẰNG TỐT NGHIỆP,BẢO QUẢN VÀ LƯU
TRỮ HỒ SƠ THI VÀ XÉT TỐT NGHIỆP PHỔ THÔNG CƠ SỞ
Điều 27, 28, 29 quy
định về việc duyệt kết quả tốt nghiệp, cấp bằng tốt nghiệp, bảo quản và lưu trữ
hồ sơ thi và xét tốt nghiệp phổ thông cơ sở. Khi thực hiện các điều này cần chú
ý một số vấn đề sau:
1. Bảng ghi tên ghi điểm từng
phòng thi được lập thành 3 bản sau khi đã được kiểm tra xem xét kỹ lưỡng và có
chữ ký của Giám đốc (hoặc Phó giám đốc) và dấu xác nhận của Sở Giáo dục phải
được coi là tài liệu gốc của kỳ thi và xét tốt nghiệp. Sau khi đã đối chiếu
khớp nhau giữa 3 bản và ghi số cấp bằng, bảng ghi tên ghi điểm được lưu trữ
không thời hạn tại Sở, Phòng Giáo dục và từng trường.
- Mỗi trường dùng bảng ghi tên
ghi điểm niêm yết công bố kết quả tốt nghiệp chính thức và để học sinh ký nhận
bằng tốt nghiệp, không phải lập sổ cấp phát bằng riêng;
- Phòng Giáo dục dựa vào bảng
ghi tên ghi điểm để soát, xét việc viết bằng tốt nghiệp;
- Sở Giáo dục dựa vào bảng ghi
tên ghi điểm để soát, xét bằng tốt nghiệp lần cuối cùng cho từng quận, huyện
trước khi ký và đóng dấu.
2. Bằng tốt nghiệp của học sinh
phải do Giám đốc Sở Giáo dục ký tên và đóng dấu. Việc ký này có thể ký bằng
tay, nếu số lượng học sinh ít; cũng có thể ký bằng cách đóng dấu chữ ký của
Giám đốc Sở Giáo dục theo Quyết định số 728-QĐ ngày 27-6-1981 của Bộ Giáo dục,
nếu số lượng học sinh quá đông. Trong trường hợp ký bằng cách đóng dấu chữ ký.
Giám đốc Sở Giáo dục phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về việc tổ chức quản lý
con dấu đó, không để xảy ra những sai sót đáng tiếc va không được sử dụng con
dấu này vào các việc khác.
3. Sau khi ký và đóng dấu vào
bằng tốt nghiệp được chuyển về từng trường để cấp phát cho học sinh. Khi nhận
bằng, học sinh phải ký nhận và ghi rõ ngày, tháng lĩnh bằng vào cột ghi chú của
bảng ghi tên ghi điểm để lưu tại trường. Bằng tốt nghiệp chỉ cần cấp 1 lần, nếu
mất bằng mà có đủ lý do chính đáng như bị thiên tại, hoả hoạn... thì chỉ được
cấp lại lần thứ 2. Khi cấp lại bằng, Sở cần ghi rõ bằng cấp lại lần thứ hai và
ngày, tháng, năm cấp lại. Đối với những trường hợp khác bị mất bằng, sẽ không
cấp lại, Sở chỉ xác nhận đã tốt nghiệp vào trong đơn khai mất bằng của học sinh
(sau khi đã thẩm tra qua bảng ghi tên ghi điểm lưu trữ tại Sở).
VIII.
KHEN THƯỞNG VÀ THI HÀNH KỶ LUẬT TRONG KỲ THI VÀ XÉT TỐT NGHIỆP
Để thực hiện việc
khen thưởng và kỷ luật trong kỳ thi và xét tốt nghiệp như đã quy định trong
chương VII của Quy chế, cần chú ý mấy vấn đề sau:
1. Về khen
thưởng, đối với cán bộ, giáo viên, và những người làm công tác phục vụ kỳ thi
và xét tốt nghiệp:
a) Các cán bộ, giáo viên và
những người làm công tác phục vụ việc coi thi, xét tốt nghiệp có tinh thần khắc
phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình thì được Chủ tịch Hội đồng thi
và xét tốt nghiệp, Hiệu trưởng hoặc Trưởng phòng giáo dục biểu dương.
b) Các cán bộ, giáo viên và
những người làm công tác phục vụ việc coi thi, chấm thi, xét tốt nghiệp hoàn
thành xuất sắc nhiệm vụ của mình thì được Chủ tịch Hội đồng thi và xét tốt
nghiệp đề nghị Uỷ ban Nhân dân huyện, quận, thị xã hoặc Sở Giáo dục cấp giấy
khen.
2. Những cán
bộ, giáo viên, nhân viên được giao nhiệm vụ trực tiếp làm công tác thi và xét
tốt nghiệp hoặc phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp đều phải được phổ biến rõ ràng
yêu cầu và cách tiến hành nhiệm vụ của mình.
Nếu vi phạm 1 trong các điều
dưới đây sẽ bị lập biên bản tại chỗ, đình chỉ ngay công việc đang làm và tuỳ
theo mức độ vi phạm mà đề nghị lên cấp trên thi hành kỷ luật theo các hình thức:
a) Bị khiển trách: Do thiếu tinh
thần trách nhiệm nên đã vi phạm quy chế thi và xét tốt nghiệp, song tác hại
không lớn như:
- Vắng mặt ở Hội đồng thi và xét
tốt nghiệp không có lý do chính đáng;
- Chép sai, sót đề thi đã được
Chủ tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp phát hiện và đã sửa lại, tuy có gây tác
hại nhưng không ảnh hưởng lớn đến việc làm bài của học sinh;
b) Bị cảnh cáo: Vi phạm quy chế
thi và xét tốt nghiệp khá nghiêm trọng như:
- Dung túng cho học sinh chép
bài hoặc nhìn bài của nhau trong khi thi;
- Chữa giấy khai sinh, học bạ,
sổ điểm, bảng ghi tên ghi điểm của học sinh dự thi và xét tốt nghiệp;
- Đánh mất hoặc để thất lạc hồ
sơ thi làm cho học sinh không được dự thi;
- Đánh mất bài thi lúc coi thi
hoặc lúc chấm thi cản trở việc xét tốt nghiệp cho học sinh;
- Chép sai sót đề thi nhưng
không được phát hiện kịp thời làm cho cả phòng thi phải thi lại theo đề thi dự
bị;
- Cộng sai, sót điểm thi làm ảnh
hưởng khá nghiêm trọng đến kết quả thi và xét tốt nghiệp của học sinh.
c) Bị hạ tầng công tác, hạ cấp
bậc kỹ thuật và hạ lương, chuyển đi làm việc khác, nếu vi phạm nghiêm trọng Quy
chế thi và xét tốt nghiệp, gây tác hại lớn đến việc tổ chức kỳ thi như:
- Ra đề thi sai kiến thức hoặc
ngoài chương trình thi, làm ảnh hưởng đến kết quả thi và xét tốt nghiệp;
- Do thiếu tinh thần trách nhiệm
mà để lộ đề thi, gây tác hại nghiêm trọng cho việc tổ chức kỳ thi và xét tốt
nghiệp;
- Do thiếu tinh thần trách nhiệm
mà để mất nhiều bài thi của học sinh, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc tổ
chức kỳ thi và xét tốt nghiệp.
d) Buộc thôi việc hoặc có thể bị
truy tố trước pháp luật, nếu vi phạm rất nghiêm trọng Quy chế thi và xét tốt
nghiệp, gây tác hại lớn đến việc tổ chức kỳ thi và xét tốt nghiệp như:
- Giải bài cho học sinh hoặc
chuyển bài cho học sinh (trong lúc đang thi).
- Chữa điểm bài thi để cho học
sinh được tốt nghiệp;
- Ăn hối lộ để học sinh được tốt
nghiệp;
- Cố tình làm lộ hoặc bán đề
thi, hướng dẫn chấm, gây tác hại rất nghiêm trọng đến việc tổ chức kỳ thi và
xét tốt nghiệp ở một địa phương;
-Có hành động chống phá kỳ thi
và xét tốt nghiệp hoặc hành hung những người làm công tác thi và xét tốt
nghiệp, làm mất trật tự, an ninh ở khu vực thi, làm cho kỳ thi và xét tốt
nghiệp phải đình hoãn lại, không thể tiến hành được ở địa phương.
Các hình thức kỷ luật nói trong
điều 33 là căn cứ vào ý thức của người phạm lỗi; tính chất, mức độ, tác hại của
hành động phạm lỗi mà xử lý.
Vì vậy, khi xét kỷ luật một
trường hợp nào đó, cấp quản lý sẽ căn cứ, đối chiếu với các hành động sai phạm
và mức độ tác hại đã ghi trong điều này để xử lý cho thoả đáng.
Đối với trường hợp vi phạm khác
thì tuỳ theo ý thức của người phạm lỗi, tính chất và tác hại của hành động phạm
lỗi mà xử lý theo các hình thức ghi trong điều 33.
Đối với những thành viên người
ngoài ngành được cử đến làm nhiệm vụ phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp, nếu có
hành động vi phạm Quy chế, gây tác hại đến việc tổ chức kỳ thi và xét tốt
nghiệp thì Chủ tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp cũng vận dụng theo các mức độ
sai phạm nói trong điều này để đề nghị với cấp chính quyền hoặc cơ quan trực
tiếp quản lý họ xét kỷ luật.
3. Điều 35 quy
định các hình thức kỷ luật đối với học sinh dự thi và xét tốt nghiệp. Cụ
thể là những học sinh dự thi và xét tốt nghiệp vi phạm một trong các điều dưới
đây sẽ bị lập biên bản tại chỗ và xử lý kỷ luật theo các hình thức nói ở điều
35:
a) Bị cảnh cáo, nếu phạm 1 trong
các khuyết điểm tương đối nghiêm trọng như:
- Đưa bài cho bạn chép hoặc gà
bài cho bạn đã được nhắc đến lần thứ hai mà vẫn tiếp tục vi phạm;
- Chép bài của ban, đã được nhắc
nhở đến lần thứ hai mà vẫn tiếp tục vi phạm.
b) Bị huỷ kết quả thi và xét tốt
nghiệp, nếu phạm 1 trong các khuyết diểm nghiêm trọng như:
- Mang tài liệu ngoài quy định
vào phòng thi (kể từ lúc đọc đè thi trong phòng thi), dù chưa sử dụng hay đã sử
dụng;
- Có bài làm giống nhau chứng tỏ
đã chép bài của nhau trong khi thi, bị giáo viên chấm thi phát hiện và tổ chấm
thi của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp xác nhận (Hội đồng thi và xét tốt nghiệp
xem xét kỹ từng trường hợp mà quyết định xử lý);
- Dùng bài làm hoặc giấy nháp
của người khác để nộp bài thi của mình, bị giáo viên chấm thi phát hiện và tổ
chấm của Hội đồng thi và xét tốt nghiệp xác nhận;
c) Cấm dự thi và xét tốt nghiệp
từ 1 đến 2 năm, nếu phạm 1 trong các khuyết điểm như:
- Hành hung cán bộ, giáo viên
coi thi, chấm thi, những người phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp, hoặc học sinh
dự thi và xét tốt nghiệp, đặc biệt là những kẻ cầm đầu;
- Làm mất trật tự, an ninh khu
vực thi, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả thi và xét tốt nghiệp, đặc biệt
là những kẻ cầm đầu.
4. Những thí
sinh vi phạm các quy định khác ngoài những điểm đã ghi trong điều 35, như tự
sửa chữa trái phép, làm giả học bạ và các hồ sơ khác, đe doạ cán bộ, giáo viên,
nhân viên, những người phục vụ kỳ thi và xét tốt nghiệp hoặc học sinh dự
thi,... thì tuỳ tính chất, mức độ nặng nhẹ, tác hại nghiêm trọng của hành động
phạm lỗi, Chủ tịch Hội đồng thi và xét tốt nghiệp sẽ xử lý từ hình thức cảnh
cáo đến hình thức huỷ bỏ kết quả thi và xét tốt nghiệp, thậm chí có thể đề nghị
cơ quan có thẩm quyền truy tố trước pháp luật.
5. Những
trường hợp vi phạm khác của học sinh dự thi, cán bộ, giáo viên, nhân viên làm
công tác thi và xét tốt nghiệp ngoài những điều nêu trong Quy chế, nếu tương
đương với trường hợp vi phạm nào thì xử lý theo mức độ đó. Trường hợp tái
phạm thì phải xử lý kỷ luật ở mức cao hơn 1 mức.
6. Quy chế thi
đã quy định từng mức độ phải xử lý kỷ luật nhằm bảo đảm cho kỳ thi và xét tốt
nghiệp được nghiêm túc. Tuy nhiên, để bảo đảm tính chất dân chủ, trước khi
quyết định kỷ luật đương sự có quyền khiếu nại với cơ quan quyết định kỷ luật
và cơ quan quản lý cấp trên, nhưng trong khi chờ đợi giải quyết, người đó vẫn
phải thi hành hình thức kỷ luật đã ghi trong quyết định. Việc thi hành kỷ luật
phải căn cứ vào biên bản, việc định hình thức kỷ luật phải có văn bản quyết
định, tất cả đều lưu hồ sơ kỷ luật, không được tiến hành tuỳ tiện.
Trên đây là những quy định hướng
dẫn thi hành Quy chế thi và xét tốt nghiệp đối với kỳ thi và xét tốt nghiệp phổ
thông cơ sở căn cứ theo điều 37 Quy chế thi và xét tốt nghiệp của Bộ.