QUỐC
HỘI
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
05/2003/QH11
|
Hà
Nội, ngày 17 tháng 6 năm 2003
|
LUẬT
CỦA
QUỐC HỘI NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM SỐ 05/2003/QH11 NGÀY 17 THÁNG 6
NĂM 2003 VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA QUỐC HỘI
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
hoạt động giám sát của Quốc hội, góp phần bảo đảm cho Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thi hành
nghiêm chỉnh và thống nhất;
Căn cứ vào Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã được
sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10 ngày 25 tháng 12 năm 2001 của
Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 10;
Luật này quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội.
Chương 1:
NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG
Điều 1. Chức
năng giám sát của Quốc hội
Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.
Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao của mình tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Quốc hội.
Điều 2. Giải
thích từ ngữ
Trong Luật này, các từ ngữ dưới
đây được hiểu như sau:
1. Giám sát là việc Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh giá hoạt động của cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc thi hành Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Chất vấn là một
hoạt động giám sát, trong đó đại biểu Quốc hội nêu những vấn đề thuộc trách nhiệm
của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và yêu cầu những người này trả lời.
Điều 3. Thẩm
quyền giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
và đại biểu Quốc hội
1. Thẩm quyền giám sát của Quốc
hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội được
quy định như sau:
a) Quốc hội giám sát hoạt động của
Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trong việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao;
b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội
giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành
viên khác của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao và Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong việc thi
hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, nghị quyết
của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giúp Quốc hội thực
hiện quyền giám sát theo sự phân công của Quốc hội;
c) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát hoạt động của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong việc thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm
pháp luật thuộc lĩnh vực Hội đồng dân tộc, Uỷ ban phụ trách; giúp Quốc hội, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội thực hiện quyền giám sát theo sự phân công của các cơ quan
này;
d) Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức
hoạt động giám sát của Đoàn và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám sát
việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân; tham gia Đoàn giám sát của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tại địa phương
khi có yêu cầu;
đ) Đại biểu Quốc hội chất vấn Chủ
tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên
khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát
nhân dân tối cao; trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình giám sát văn bản
quy phạm pháp luật, giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương, giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
2. Khi xét thấy cần thiết, Quốc
hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tiến hành
giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.
Điều 4.
Trách nhiệm của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại
biểu Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát
Việc thực hiện quyền giám sát của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội phải bảo đảm công khai, khách quan,
đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật và không làm cản
trở hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm về quyết định, yêu cầu, kiến nghị
giám sát của mình.
Quốc hội xem xét, đánh giá và
báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước cử tri cả nước.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội chịu
trách nhiệm và báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước Quốc hội.
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội chịu trách nhiệm và báo cáo về hoạt động giám sát của mình trước Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội chịu
trách nhiệm về hoạt động giám sát của mình; báo cáo về hoạt động giám sát của
Đoàn và của các đại biểu Quốc hội trong Đoàn với Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội chịu trách nhiệm
và báo cáo về việc thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình trước cử tri tại địa
phương.
Điều 5. Quyền
và trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát có các quyền và trách nhiệm theo quy định của Luật này và các quy định
khác của pháp luật có liên quan.
Điều 6. Tham
gia giám sát của cơ quan, tổ chức, cá nhân
1. Khi thực hiện quyền giám sát,
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội dựa vào sự tham gia của nhân dân, của
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận.
2. Khi tiến hành hoạt động giám
sát, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội có thể mời đại diện Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và yêu cầu đại diện cơ quan, tổ
chức, cá nhân hữu quan tham gia; cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm thực
hiện yêu cầu này.
Chương 2:
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT TỐI
CAO CỦA QUỐC HỘI
Điều 7. Các
hoạt động giám sát của Quốc hội
Quốc hội giám sát thông qua các
hoạt động sau đây:
1. Xem xét báo cáo công tác của
Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
2. Xem xét báo cáo của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội về tình hình thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
3. Xem xét văn bản quy phạm pháp
luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
4. Xem xét việc trả lời chất vấn
của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao;
5. Thành lập Uỷ ban lâm thời để điều
tra về một vấn đề nhất định và xem xét báo cáo kết quả điều tra của Uỷ ban.
Điều 8. Chương
trình giám sát của Quốc hội
Quốc hội quyết định chương trình
giám sát hàng năm của mình theo đề nghị của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Uỷ ban
trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự kiến
chương trình giám sát của Quốc hội trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp
cuối năm của năm trước và tổ chức thực hiện chương trình đó.
Điều 9. Xem
xét báo cáo công tác
1. Tại kỳ họp cuối năm, Quốc hội
xem xét, thảo luận báo cáo công tác hàng năm của Uỷ ban thường vụ Quốc hội,
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao,Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Tại kỳ họp
giữa năm, các cơ quan này gửi báo cáo công tác đến đại biểu Quốc hội; khi cần
thiết, Quốc hội có thể xem xét, thảo luận.
Tại kỳ họp cuối nhiệm kỳ, Quốc hội
xem xét, thảo luận báo cáo công tác cả nhiệm kỳ của Quốc hội, Chủ tịch nước, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởngViện kiểm sát nhân dân tối cao.
Quốc hội có thể yêu cầu Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.
2. Các báo cáo công tác quy định
tại khoản 1 Điều này, trừ các báo cáo của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội
và Chủ tịch nước, phải được Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thẩm tra theo
sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Quốc hội xem xét, thảo luận
báo cáo theo trình tự sau đây:
a) Người đứng đầu cơ quan quy định
tại khoản 1 Điều này trình bày báo cáo;
b) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc
Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Quốc hội thảo luận;
d) Người đứng đầu cơ quan trình
bày báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà đại biểu Quốc hội
quan tâm;
đ) Quốc hội ra nghị quyết về
công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.
Điều 10.
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội
1. Khi phát hiện văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, đình chỉ việc thi hành và trình Quốc
hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp
gần nhất.
Khi phát hiện văn bản quy phạm
pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội thì đại biểu Quốc hội đề nghị Uỷ ban thường
vụ Quốc hội, Chủ tịch nước sửa đổi hoặc huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản
đó; Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước có trách nhiệm xem xét, trả lời đại
biểu Quốc hội. Trong trường hợp đại biểu Quốc hội không đồng ý với trả lời của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước thì yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc hội
trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất.
2. Quốc hội xem xét văn bản quy
phạm pháp luật của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao có dấu hiệu
trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội theo trình tự sau đây:
a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội
trình Quốc hội xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
b) Quốc hội thảo luận.
Trong quá trình thảo luận, người
đứng đầu cơ quan đã ban hành văn bản quy phạm pháp luật có thể trình bày bổ
sung những vấn đề có liên quan;
c) Quốc hội ra nghị quyết về việc
văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với
Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.
Điều 11. Chất
vấn và trả lời chất vấn tại kỳ họp
Tại kỳ họp Quốc hội, việc chất vấn
và trả lời chất vấn được thực hiện như sau:
1. Đại biểu Quốc hội ghi rõ nội
dung chất vấn, người bị chất vấn vào phiếu ghi chất vấn và gửi đến Chủ tịch Quốc
hội để chuyển đến người bị chất vấn. Đoàn thư ký kỳ họp giúp Chủ tịch Quốc hội
tổng hợp các chất vấn của đại biểu Quốc hội để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội dự
kiến danh sách những người có trách nhiệm trả lời chất vấn tại kỳ họp và báo
cáo Quốc hội quyết định;
3. Việc trả lời chất vấn tại
phiên họp toàn thể của Quốc hội được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Người bị chất vấn trả lời trực
tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định
rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
b) Đại biểu Quốc hội có thể nêu
câu hỏi liên quan đến nội dung đã chất vấn để người bị chất vấn trả lời.
Thời gian trả lời chất vấn, thời
gian nêu câu hỏi và trả lời thêm được thực hiện theo quy định tại Điều 43 của Nội
quy kỳ họp Quốc hội;
4. Sau khi nghe trả lời chất vấn,
nếu đại biểu Quốc hội không đồng ý với nội dung trả lời thì có quyền đề nghị Quốc
hội tiếp tục thảo luận tại phiên họp đó, đưa ra thảo luận tại phiên họp khác của
Quốc hội hoặc kiến nghị Quốc hội xem xét trách nhiệm đối với người bị chất vấn.
Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm của người bị chất
vấn khi xét thấy cần thiết;
5. Người đã trả lời chất vấn tại
kỳ họp Quốc hội, tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc đã trả lời chất vấn
của đại biểu Quốc hội bằng văn bản có trách nhiệm báo cáo với các đại biểu Quốc
hội bằng văn bản về việc thực hiện những vấn đề đã hứa khi trả lời chất vấn tại
kỳ họp tiếp theo.
Điều 12.
Thành lập Uỷ ban lâm thời của Quốc hội
1. Khi xét thấy cần thiết, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội tự mình hoặc theo đề nghị của Chủ tịch nước, Thủ tướng
Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội
trình Quốc hội quyết định thành lập Uỷ ban lâm thời để điều tra về
một vấn đề nhất định.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban
lâm thời do Quốc hội quyết định.
2. Quốc hội xem xét báo cáo kết
quả điều tra của Uỷ ban lâm thời theo trình tự sau đây:
a) Chủ nhiệm Uỷ ban lâm thời
trình bày báo cáo kết quả điều tra;
b) Quốc hội thảo luận;
c) Quốc hội ra nghị quyết về vấn
đề đã được điều tra.
Điều 13. Quốc
hội bỏ phiếu tín nhiệm
1. Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối
với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn theo quy định sau đây:
a) Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự
mình hoặc khi có kiến nghị của ít nhất hai mươi phần trăm (20%) tổng số đại biểu
Quốc hội hoặc kiến nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trình Quốc hội
bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
b) Người được đưa ra bỏ phiếu
tín nhiệm có quyền trình bày ý kiến của mình trước Quốc hội;
c) Quốc hội thảo luận và bỏ phiếu
tín nhiệm.
2. Trong trường hợp người được
đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm không được quá nửa tổng số đại biểu Quốc hội tín nhiệm
thì cơ quan hoặc người đã giới thiệu để bầu hoặc đề nghị phê chuẩn người đó có
trách nhiệm trình Quốc hội xem xét, quyết định việc miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc
phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức người đó.
Điều 14. Thẩm
quyền của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát
Căn cứ vào kết quả giám sát, Quốc
hội có các quyền sau đây:
1. Yêu cầu Uỷ ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội;
2. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ
văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
3. Ra nghị quyết về việc trả lời
chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
4. Miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch
nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Uỷ viên Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; phê chuẩn việc miễn nhiệm, cách chức
Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ.
Chương 3:
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA UỶ
BAN THƯỜNG VỤ QUỐC HỘI
Điều 15.
Các hoạt động giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám
sát thông qua các hoạt động sau đây:
1. Xem xét báo cáo công tác của Chính
phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời gian giữa
hai kỳ họp Quốc hội;
2. Xem xét văn bản quy phạm pháp
luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
3. Xem xét việc trả lời chất vấn
của người bị chất vấn trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
4. Xem xét báo cáo hoạt động của
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương; xem xét nghị quyết của
Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dấu hiệu trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội;
5. Xem xét việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân;
6. Tổ chức Đoàn giám sát.
Điều 16. Chương
trình giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết
định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình căn cứ vào chương trình
giám sát của Quốc hội, đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn
đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam và ý kiến, kiến nghị của cử tri cả nước.
Căn cứ vào chương trình giám sát
đã được thông qua, Uỷ ban thường vụ Quốc hội phân công thành viên Uỷ ban thường
vụ Quốc hội thực hiện các nội dung trong chương trình; có thể giao Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội thực hiện một số nội dung thuộc chương trình và báo
cáo kết quả với Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quyết định tiến độ thực hiện và các
biện pháp bảo đảm thực hiện chương trình giám sát.
Điều 17.
Xem xét báo cáo của Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao
1. Trong thời gian giữa hai kỳ họp
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao; yêu cầu các cơ quan này
báo cáo về những vấn đề khác khi xét thấy cần thiết.
2. Báo cáo của Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao được Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ
ban của Quốc hội thẩm tra trước khi trình Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
3. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem
xét báo cáo theo trình tự sau đây:
a) Người đứng đầu cơ quan quy định
tại khoản 1 Điều này trình bày báo cáo;
b) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc
Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày báo cáo thẩm tra;
c) Đại diện các cơ quan, tổ chức
được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo
luận;
đ) Người đứng đầu cơ quan trình
báo cáo có thể trình bày thêm những vấn đề có liên quan mà thành viên Uỷ ban
thường vụ Quốc hội quan tâm;
e) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra
nghị quyết về công tác của cơ quan đã báo cáo khi xét thấy cần thiết.
Điều 18.
Xem xét văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự
mình hoặc theo đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội quyết định xem xét văn bản quy phạm
pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc
hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc
hội giao cho Hội đồng dân tộc hoặc Uỷ ban của Quốc hội chuẩn bị ý kiến về văn bản
quy phạm pháp luật đó để báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem
xét văn bản quy phạm pháp luật quy định tại khoản 1 Điều này theo trình tự sau
đây:
a) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc
Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày ý kiến;
b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo
luận;
c) Người đứng đầu cơ quan đã ban
hành văn bản trình bày ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra
nghị quyết về việc văn bản quy phạm pháp luật không trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
quyết định huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; đình chỉ việc thi hành một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết
của Quốc hội và trình Quốc hội xem xét, quyết định tại kỳ họp gần nhất.
Điều 19. Trả
lời chất vấn tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội
1. Việc trả lời chất vấn tại
phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội được thực hiện như sau:
a) Chủ tịch Quốc hội nêu chất vấn
của đại biểu Quốc hội đã được Quốc hội quyết định cho trả lời tại phiên họp Uỷ
ban thường vụ Quốc hội và những chất vấn khác được gửi tới Uỷ ban thường vụ Quốc
hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội;
b) Người bị chất vấn trả lời trực
tiếp, đầy đủ nội dung các vấn đề mà đại biểu Quốc hội đã chất vấn và xác định
rõ trách nhiệm, biện pháp khắc phục;
c) Đại biểu Quốc hội đã chất vấn
có thể được mời tham dự phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phát biểu ý kiến.
Trong trường hợp đại biểu Quốc hội có chất vấn không tham dự phiên họp thì nội
dung trả lời chất vấn, kết quả phiên họp trả lời chất vấn phải được gửi tới đại
biểu đó chậm nhất là bảy ngày, kể từ ngày kết thúc phiên họp Uỷ ban thường vụ
Quốc hội; nếu đại biểu Quốc hội có chất vấn không đồng ý với nội dung trả lời
thì có quyền đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội đưa ra thảo luận tại kỳ họp Quốc
hội.
2. Sau khi nghe trả lời chất vấn,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về việc trả lời chất vấn và trách nhiệm
của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết.
Điều 20.
Xem xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
1. Uỷ ban thường vụ Quốc hội tự
mình hoặc theo đề nghị của Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội quyết định xem
xét nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao cho Hội đồng dân tộc
hoặc Uỷ ban của Quốc hội chuẩn bị ý kiến về nghị quyết đó để báo cáo Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
2. Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem
xét nghị quyết quy định tại khoản 1 Điều này theo trình tự sau đây:
a) Chủ tịch Hội đồng dân tộc hoặc
Chủ nhiệm Uỷ ban của Quốc hội trình bày ý kiến;
b) Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo
luận;
c) Chủ tịch Hội đồng nhân dân
nơi đã ra nghị quyết được mời tham dự phiên họp và trình bày ý kiến;
d) Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra
nghị quyết về việc nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương không trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn
bộ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội.
Điều 21.
Xem xét báo cáo hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương
Hàng năm, Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương gửi báo cáo hoạt động của mình đến Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
Khi xét thấy cần thiết, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội xem xét và ra nghị quyết về hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
Điều 22.
Giám sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám
sát việc bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm
cho việc bầu cử được tiến hành dân chủ, đúng pháp luật.
Trình tự, thủ tục giám sát việc
bầu cử đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp được thực hiện
theo quy định của pháp luật về bầu cử.
Điều 23. Tổ
chức Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
1. Căn cứ vào chương trình giám
sát của mình hoặc theo yêu cầu của Quốc hội, đề nghị của Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc của đại biểu Quốc hội,
Uỷ ban thường vụ Quốc hội quyết định thành lập Đoàn giám sát của Uỷ ban thường
vụ Quốc hội.
Nghị quyết của Uỷ ban thường vụ
Quốc hội về việc thành lập Đoàn giám sát phải xác định rõ nội dung, kế hoạch
giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát.
Nội dung, kế hoạch giám sát của
Đoàn giám sát được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm
nhất là bảy ngày, trước ngày Đoàn bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát.
2. Đoàn
giám sát có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung, kế
hoạch giám sát trong nghị quyết về việc thành lập Đoàn giám sát;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có
liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề mà Đoàn giám sát quan
tâm;
c) Xem xét, xác minh những vấn đề
mà Đoàn giám sát thấy cần thiết;
d) Khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và
khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm
của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật;
đ) Chậm nhất là mười lăm ngày, kể
từ ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát phải có báo cáo kết quả giám
sát gửi Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
Điều 24.
Xem xét báo cáo của Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội
Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem
xét báo cáo của Đoàn giám sát theo trình tự sau đây:
1. Trưởng Đoàn giám sát trình
bày báo cáo;
2. Đại diện cơ quan, tổ chức được
mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
3. Uỷ ban thường vụ Quốc hội thảo
luận.
Trong quá trình thảo luận, đại diện
Đoàn giám sát có thể trình bày bổ sung những vấn đề có liên quan;
4. Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra
nghị quyết về vấn đề được giám sát. Nghị quyết này được gửi tới cơ quan, tổ chức,
cá nhân chịu sự giám sát.
Điều 25.
Giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu nại, tố
cáo
Uỷ ban thường vụ Quốc hội giám
sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo; xem xét báo cáo của Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo; tổ chức Đoàn giám sát hoặc giao Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo.
Khi phát hiện có hành vi vi phạm
pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của
tổ chức, cá nhân thì Uỷ ban thường vụ Quốc hội yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm, đồng thời yêu
cầu người có thẩm quyền xem xét, giải quyết; nếu không đồng ý với việc giải quyết
của người đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem
xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan có trách nhiệm thực hiện
yêu cầu của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và phải báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội
trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
Điều 26. Thẩm
quyền của Uỷ ban thường vụ Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám sát
Căn cứ vào kết quả giám sát, Uỷ
ban thường vụ Quốc hội có các quyền sau đây:
1. Đình chỉ việc thi hành một phần
hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật,
nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội xem xét, quyết định việc bãi bỏ một phần
hoặc toàn bộ văn bản đó tại kỳ họp gần nhất;
2. Quyết định huỷ bỏ một phần hoặc
toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết
của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
3. Kiến nghị với Quốc hội hoặc
yêu cầu cơ quan, cá nhân có thẩm quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm hoặc cách chức, xử
lý đối với những người có hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng;
4. Đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn;
5. Quyết định bãi bỏ một phần hoặc
toàn bộ nghị quyết sai trái của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
trong trường hợp Hội đồng nhân dân đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của
nhân dân;
6. Ra nghị quyết về việc trả lời
chất vấn và trách nhiệm của người bị chất vấn khi xét thấy cần thiết;
7. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người vi phạm, kịp thời khôi phục lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm;
8. Huỷ bỏ cuộc bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân ở đơn vị bầu cử có vi phạm pháp luật nghiêm trọng và quyết định bầu
cử lại ở đơn vị bầu cử đó.
Chương 4:
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA HỘI
ĐỒNG DÂN TỘC, UỶ BAN CỦA QUỐC HỘI
Điều 27.
Các hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội giám sát thông qua các hoạt động sau đây:
1. Thẩm tra báo cáo công tác của
Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc lĩnh vực
Hội đồng, Uỷ ban phụ trách hoặc theo sự phân công của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2. Xem xét văn bản quy phạm pháp
luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản quy phạm pháp
luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa
cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị -
xã hội có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội và văn bản quy phạm pháp luật của cơ
quan nhà nước cấp trên;
3. Trong trường hợp cần thiết,
yêu cầu Chính phủ, bộ, cơ quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao báo cáo về hoạt động thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ
trách;
4. Tổ chức Đoàn giám sát;
5. Cử thành viên đến cơ quan, tổ
chức hữu quan để xem xét, xác minh về vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban quan tâm;
6. Tổ chức nghiên cứu, xử lý và
xem xét việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
Điều 28. Chương
trình giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc
hội quyết định chương trình giám sát hàng quý, hàng năm của mình căn cứ vào chương
trình giám sát của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và ý kiến của các thành viên
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội.
Thường trực Hội đồng dân tộc,
Thường trực Uỷ ban của Quốc hội dự kiến chương trình giám sát trình Hội đồng, Uỷ
ban xem xét, quyết định và tổ chức thực hiện chương trình đó.
Điều 29.
Trình tự xem xét, thẩm tra báo cáo
1. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội tổ chức phiên họp thẩm tra báo cáo công tác của Chính phủ, Toà án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Báo cáo thẩm tra của Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội được gửi đến Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội.
2. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội tổ chức phiên họp để xem xét báo cáo hoạt động của Chính phủ, bộ, cơ
quan ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao thuộc
lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách.
3. Việc xem xét, thẩm tra báo
cáo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này được tiến hành theo trình tự sau
đây:
a) Người đứng đầu cơ quan có báo
cáo trình bày báo cáo;
b) Đại diện cơ quan, tổ chức được
mời dự phiên họp phát biểu ý kiến;
c) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội thảo luận;
d) Chủ toạ phiên họp kết luận.
Điều 30. Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật
1. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thường xuyên
theo dõi, đôn đốc Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành văn
bản quy phạm pháp luật để hướng dẫn thi hành luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội đúng thời hạn theo quy định
của pháp luật.
2. Khi nhận được văn bản quy phạm
pháp luật do cơ quan hữu quan gửi đến, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có
trách nhiệm nghiên cứu, xem xét nội dung văn bản đó.
3. Trong trường hợp phát hiện
văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét, sửa đổi, bổ sung, đình
chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản đó. Trong thời hạn
ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, cơ quan, tổ chức, cá nhân phải
thông báo cho Hội đồng, Uỷ ban biết việc giải quyết; quá thời hạn nói trên mà
không trả lời hoặc giải quyết không đáp ứng với yêu cầu thì Hội đồng, Uỷ ban có
quyền:
a) Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc
hội xem xét, quyết định việc đình chỉ thi hành văn bản quy phạm pháp luật của
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
tối cao có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình
Quốc hội xem xét, quyết định;
b) Đề nghị Uỷ ban thường vụ Quốc
hội xem xét, quyết định huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật
của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao có dấu hiệu trái với pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội; quyết định bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc
hội;
c) Kiến nghị Thủ tướng Chính phủ
xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một phần hoặc toàn bộ
quyết định, chỉ thị, thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ có dấu
hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, nghị quyết, nghị định của Chính phủ, quyết định, chỉ
thị của Thủ tướng Chính phủ;
d) Kiến nghị với cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét, quyết định bãi bỏ hoặc đình chỉ việc thi hành một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước
có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội có dấu hiệu trái với văn bản quy phạm
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên.
Điều 31. Tổ
chức Đoàn giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
1. Căn cứ vào chương trình giám
sát của mình hoặc qua giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân,
qua phương tiện thông tin đại chúng phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật hoặc
được Uỷ ban thường vụ Quốc hội giao thì Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tổ
chức Đoàn giám sát của Hội đồng, Uỷ ban.
Việc thành lập Đoàn giám sát, nội
dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát do Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ ban quyết định.
Nội dung, kế hoạch giám sát của
Đoàn giám sát được thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát chậm
nhất là bảy ngày, trước ngày Đoàn bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát.
2. Đoàn giám sát có những nhiệm
vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung, kế
hoạch giám sát trong quyết định thành lập Đoàn giám sát;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có
liên quan đến nội dung giám sát; giải trình những vấn đề mà Đoàn quan tâm;
c) Xem xét, xác minh những vấn đề
mà Đoàn thấy cần thiết;
d) Khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân thì Đoàn giám sát có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức,
cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm
pháp luật, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét
trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của
pháp luật;
đ) Chậm nhất là mười ngày, kể từ
ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát phải báo cáo kết quả giám sát với
Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc với Thường trực Hội đồng dân tộc,
Thường trực Uỷ ban của Quốc hội.
Điều 32.
Xem xét báo cáo của Đoàn giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
1. Căn cứ vào tính chất, nội
dung của vấn đề được giám sát, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội tổ chức
phiên họp Hội đồng, Uỷ ban hoặc phiên họp Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ
ban để xem xét, thảo luận về báo cáo của Đoàn giám sát.
2. Việc xem xét báo cáo của Đoàn
giám sát được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Trưởng Đoàn giám sát trình
bày báo cáo;
b) Đại diện cơ quan, tổ chức được
mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
c) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội hoặc Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ ban thảo luận về báo cáo của
Đoàn giám sát;
d) Chủ toạ phiên họp kết luận; Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội hoặc Thường trực Hội đồng, Thường trực Uỷ ban
biểu quyết khi xét thấy cần thiết.
3. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội gửi báo cáo kết quả giám sát đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội, đồng thời
gửi đến cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát. Báo cáo phải nêu rõ kiến
nghị về các biện pháp cần thiết.
Điều 33.
Giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội đối với việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo
1. Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tiếp công
dân; tiếp nhận, nghiên cứu và xử lý khiếu nại, tố cáo của công dân; giám sát việc
giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ
trách.
2. Khi nhận được khiếu nại, tố
cáo của công dân, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có trách nhiệm tổ chức
nghiên cứu và chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền để xem xét, giải
quyết; nếu không đồng ý với kết quả giải quyết đó thì yêu cầu người đứng đầu cơ
quan, tổ chức cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải xem xét, giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định và thông
báo về việc giải quyết đến Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong thời hạn
bảy ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
3. Trong trường hợp cần thiết, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có
liên quan hoặc người khiếu nại, tố cáo đến trình bày và cung cấp thông tin,
tài liệu mà Hội đồng hoặc Uỷ ban quan tâm; tổ chức Đoàn giám sát để xem xét,
xác minh về những vấn đề mà Hội đồng, Uỷ ban quan tâm hoặc theo yêu cầu của Uỷ
ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch Quốc hội.
Điều 34. Thẩm
quyền của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong việc kiến nghị Uỷ ban thường
vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức
vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn
1. Trong quá trình giám sát, nếu
phát hiện người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn có hành vi vi phạm
pháp luật hoặc không thực hiện đúng và đầy đủ nhiệm vụ, quyền hạn được giao,
gây thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân thì Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có quyền kiến
nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với
người đó.
2. Việc thực hiện quy định tại khoản
1 Điều này được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội tổ chức phiên họp để xem xét, thảo luận, đánh giá về hành vi vi phạm của
người đang được xem xét đề nghị Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm;
b) Đại diện cơ quan, tổ chức được
mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến;
c) Người đang được xem xét đề
nghị bỏ phiếu tín nhiệm có thể được mời tham dự phiên họp và trình bày ý kiến về
những vấn đề mà Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội quan tâm;
d) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội thảo luận;
đ) Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội biểu quyết. Trong trường hợp có ít nhất hai phần ba tổng số thành viên
tán thành đưa ra bỏ phiếu tín nhiệm, thì Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội
kiến nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối
với người đó.
Điều 35. Thẩm
quyền của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội trong việc xem xét kết quả giám
sát
Căn cứ vào kết quả giám sát, Hội
đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội có các quyền sau đây:
1. Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật mới;
2. Kiến nghị với Thủ tướng Chính
phủ, các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương về những vấn đề thuộc lĩnh vực Hội đồng, Uỷ ban phụ trách. Người
nhận được kiến nghị có trách nhiệm xem xét và trả lời trong thời hạn mười lăm
ngày, kể từ ngày nhận được kiến nghị. Quá thời hạn này mà không nhận được trả lời
hoặc trong trường hợp không tán thành với nội dung trả lời thì Hội đồng dân tộc,
Uỷ ban của Quốc hội có quyền kiến nghị với Chủ tịch Quốc hội yêu cầu người nhận
được kiến nghị trả lời tại phiên họp Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kỳ họp
gần nhất của Quốc hội; đối với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương thì đề nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét;
3. Khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân thì yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
áp dụng các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét
trách nhiệm, xử lý người vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm.
Điều 36. Uỷ
ban thường vụ Quốc hội chỉ đạo, điều hoà, phối hợp hoạt động giám sát của Hội đồng
dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội
Trong việc chỉ đạo, điều hoà, phối
hợp hoạt động giám sát của Hội đồng dân tộc, các Uỷ ban của Quốc hội, Uỷ ban
thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
1. Phân công Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội thẩm tra các dự án, báo cáo trình Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội; giao Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội thực hiện một số nội dung
trong chương trình giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội;
2. Yêu cầu Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội định kỳ báo cáo về chương trình, nội dung, kế hoạch giám sát của
Hội đồng, Uỷ ban;
3. Yêu cầu Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội phối hợp thực hiện một số hoạt động giám sát ở cùng một cơ
quan, địa phương, đơn vị để bảo đảm chất lượng và hiệu quả hoạt động giám sát;
4. Xem xét, thảo luận báo cáo kết
quả giám sát và kiến nghị giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội.
Trong trường hợp cần thiết, Uỷ ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết về những vấn
đề mà Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội kiến nghị, các biện pháp để khắc phục
hậu quả do hành vi vi phạm pháp luật gây ra, yêu cầu xử lý người vi phạm và
giao cho các cơ quan, tổ chức hữu quan thực hiện.
Chương 5:
HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA ĐẠI
BIỂU QUỐC HỘI VÀ ĐOÀN ĐẠI BIỂU QUỐC HỘI
Điều 37.
Các hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội
1. Đại biểu Quốc hội giám sát
thông qua các hoạt động sau đây:
a) Chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ,
Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Giám sát văn bản quy phạm
pháp luật; giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương;
c) Giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân.
2. Đại biểu Quốc hội tự mình tiến
hành hoạt động giám sát hoặc tham gia hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc
hội; tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
Điều 38.
Các hoạt động giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội
Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát
thông qua các hoạt động sau đây:
1. Tổ chức Đoàn giám sát của
Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để các đại biểu Quốc hội trong Đoàn giám sát
việc thi hành pháp luật ở địa phương; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội
đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
2. Giám sát việc giải quyết khiếu
nại, tố cáo của công dân mà đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đã chuyển
đến cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền giải quyết;
3. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân ở địa phương trả lời về những vấn đề mà Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm;
4. Cử đại biểu Quốc hội trong
Đoàn tham gia Đoàn giám sát của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ
ban của Quốc hội tại địa phương khi có yêu cầu.
Điều 39. Chương
trình giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội lập chương
trình giám sát sáu tháng, hàng năm của mình và gửi đến Đoàn đại biểu Quốc hội.
Đoàn đại biểu Quốc hội căn cứ
vào chương trình giám sát của từng đại biểu Quốc hội, chương trình giám sát của
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
tình hình thực tế của địa phương, đề nghị của Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương và ý kiến, kiến nghị của cử tri tại địa phương
lập chương trình giám sát sáu tháng, hàng năm của Đoàn và báo cáo Uỷ ban thường
vụ Quốc hội. Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức thực hiện các hoạt động giám sát của
Đoàn và tổ chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn thực hiện chương trình giám sát
của mình.
Sáu tháng và hàng năm, Đoàn đại
biểu Quốc hội có trách nhiệm báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội về việc thực hiện
chương trình giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và của các đại biểu Quốc hội
trong Đoàn.
Điều 40. Chất
vấn của đại biểu Quốc hội
Đại biểu Quốc hội có quyền chất
vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ, Chánh án Toà án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao.
Nội dung chất vấn phải ngắn gọn,
rõ ràng, có căn cứ và phải liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm cá
nhân của người bị chất vấn.
Chất vấn được thể hiện bằng văn
bản hoặc hỏi trực tiếp.
Trình tự, thủ tục chất vấn và trả
lời chất vấn được thực hiện theo quy định tại Điều 11 và Điều 19
của Luật này.
Điều 41. Đại
biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật
Khi nhận được văn bản quy phạm
pháp luật, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có trách nhiệm nghiên cứu,
xem xét nội dung văn bản đó. Trong trường hợp phát hiện văn bản quy phạm pháp
luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh,
nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội thì đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có quyền yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật mới.
Điều 42. Tổ
chức Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ chức để đại biểu Quốc hội
tiến hành giám sát việc thi hành pháp luật ở địa phương
1. Căn cứ vào chương trình giám sát,
Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và tổ
chức để đại biểu Quốc hội trong Đoàn tiến hành giám sát việc thi hành pháp luật
ở địa phương.
Việc thành lập Đoàn giám sát, nội
dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám sát do Đoàn đại biểu Quốc hội quyết định.
Đại biểu Quốc hội tiến hành giám
sát quyết định nội dung, kế hoạch giám sát, người được mời tham gia giám sát,
cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và báo cáo Đoàn đại biểu Quốc hội.
Nội dung, kế hoạch giám sát của
Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội và của đại biểu Quốc hội được Trưởng
Đoàn đại biểu Quốc hội thông báo cho cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
chậm nhất là bảy ngày, trước ngày bắt đầu tiến hành hoạt động giám sát.
2. Khi tiến hành giám sát, Đoàn
giám sát và đại biểu Quốc hội có những nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
a) Thực hiện đúng nội dung, kế
hoạch giám sát trong quyết định thành lập Đoàn giám sát hoặc quyết định tổ chức
hoạt động giám sát của đại biểu Quốc hội;
b) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thông tin, tài liệu có
liên quan đến nội dung giám sát; giải trình những vấn đề mà Đoàn giám sát, đại
biểu Quốc hội quan tâm; xem xét, giải quyết những vấn đề có liên quan đến việc
thi hành chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc liên quan đến đời sống kinh tế
- xã hội của nhân dân địa phương;
c) Xem xét, xác minh những vấn đề
mà Đoàn giám sát, đại biểu Quốc hội thấy cần thiết;
d) Khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân thì kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng
các biện pháp để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm; yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức,
cá nhân có hành vi vi phạm theo quy định của pháp luật;
đ) Chậm nhất là mười ngày, kể từ
ngày kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát, đại biểu Quốc hội tiến hành hoạt
động giám sát phải gửi báo cáo kết quả giám sát đến Đoàn đại biểu Quốc hội.
3. Căn cứ vào tính chất, nội
dung của vấn đề được giám sát, Đoàn đại biểu Quốc hội có thể tổ chức thảo luận
về các kiến nghị, yêu cầu của Đoàn giám sát hoặc của đại biểu Quốc hội đã tiến
hành giám sát. Kiến nghị, yêu cầu của Đoàn đại biểu Quốc hội qua hoạt động giám
sát được gửi tới cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Điều 43.
Giám sát của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội đối với việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo
1. Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội có trách nhiệm tiếp nhận, xử lý, đôn đốc, theo dõi việc giải quyết
khiếu nại, tố cáo của công dân.
Đoàn đại biểu Quốc hội có trách
nhiệm tổ chức để đại biểu Quốc hội tiếp công dân, giám sát cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân.
2. Khi nhận được khiếu nại, tố
cáo của công dân, đại biểu Quốc hội có trách nhiệm tổ chức nghiên cứu và trực
tiếp hoặc thông qua Đoàn đại biểu Quốc hội chuyển đến cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền
phải xem xét, giải quyết trong thời hạn do pháp luật quy định và thông báo cho
đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội biết việc giải quyết trong thời hạn bảy
ngày, kể từ ngày ra quyết định giải quyết.
Trong trường hợp xét thấy việc
giải quyết không thoả đáng, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền
gặp người đứng đầu cơ quan, tổ chức hữu quan để tìm hiểu, yêu cầu xem xét lại.
Khi cần thiết, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu người
đứng đầu cơ quan, tổ chức hữu quan cấp trên của cơ quan, tổ chức đó giải quyết.
3. Trong trường hợp cần thiết, đại
biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có liên quan hoặc người khiếu nại, tố cáo đến trình bày và cung cấp thông
tin, tài liệu có liên quan; xem xét, xác minh những vấn đề mà đại biểu Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội quan tâm; tổ chức Đoàn giám sát của Đoàn đại biểu Quốc hội
để giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân tại địa phương.
Điều 44. Thẩm
quyền của đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội trong việc xem xét kết quả
giám sát
1. Căn cứ vào kết quả giám sát,
đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có các quyền sau đây:
a) Kiến nghị, yêu cầu cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền sửa đổi, bổ sung, đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một
phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật hoặc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật mới;
b) Kiến nghị cơ quan, tổ chức,
cá nhân có thẩm quyền xem xét, giải quyết các vấn đề có liên quan đến chủ
trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước hoặc các vấn đề của địa phương;
c) Khi phát hiện có hành vi vi
phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân hoặc của
công dân, yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng các biện pháp
để kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật, xem xét trách nhiệm, xử lý người
vi phạm, khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân bị vi phạm. Trong thời hạn ba mươi ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu,
cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân phải thông báo cho đại biểu Quốc hội, Đoàn đại
biểu Quốc hội biết việc giải quyết. Quá thời hạn nói trên mà không nhận được trả
lời thì đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội có quyền kiến nghị với người
đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp xem xét, giải quyết, đồng
thời báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định.
2. Ngoài các quyền quy định tại khoản
1 Điều này, đại biểu Quốc hội còn có quyền kiến nghị Uỷ ban thường vụ Quốc hội
xem xét trình Quốc hội bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội
bầu hoặc phê chuẩn.
Chương 6:
QUYỀN VÀ TRÁCH NHIỆM CỦA
CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÁ NHÂN CHỊU SỰ GIÁM SÁT VÀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM HOẠT ĐỘNG
GIÁM SÁT
Điều 45.
Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
1. Cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu
sự giám sát phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường
vụ Quốc hội; tạo điều kiện thuận lợi để các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội thực hiện quyền giám sát; kịp thời cung cấp thông
tin, tài liệu cần thiết khi được yêu cầu; giải quyết, trả lời yêu cầu, kiến nghị
của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu
Quốc hội.
2. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng
cơ quan ngang bộ và các cơ quan, tổ chức hữu quan có trách nhiệm gửi văn bản
quy phạm pháp luật mà mình đã ban hành đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng
dân tộc, Uỷ ban hữu quan của Quốc hội chậm nhất là ba ngày, kể từ ngày ký văn bản.
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có trách nhiệm gửi văn bản quy phạm
pháp luật mà mình đã ban hành đến Đoàn đại biểu Quốc hội chậm nhất là ba ngày,
kể từ ngày ký văn bản.
3. Cá nhân, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức chịu sự giám sát có trách nhiệm trực tiếp trình bày những vấn đề
mà Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội nêu ra; trường hợp uỷ quyền cho người
khác trình bày thì phải được Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân
tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội chấp thuận.
4. Cá nhân, người đứng đầu cơ
quan, tổ chức chịu sự giám sát có hành vi cản trở hoặc không thực hiện những
yêu cầu, quyết định của Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc,
Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội khi thực hiện
quyền giám sát thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử
phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Điều 46.
Quyền của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
Khi Quốc hội, Uỷ ban thường vụ
Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu
Quốc hội tiến hành hoạt động giám sát, cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát có các quyền sau đây:
1. Được thông báo trước về kế hoạch,
nội dung giám sát hoặc nội dung được yêu cầu báo cáo, trả lời theo quy định của
pháp luật;
2. Trình bày ý kiến về các nội
dung liên quan thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình;
3. Từ chối trả lời, cung cấp
thông tin không thuộc phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình hoặc những thông tin
thuộc bí mật nhà nước theo quy định của pháp luật;
4. Đề nghị cơ quan của Quốc hội,
Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội xem xét lại yêu cầu, kiến nghị giám
sát liên quan đến hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình; trong trường hợp
không tán thành với yêu cầu, kiến nghị giám sát của Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội hoặc đại biểu Quốc hội thì tự mình hoặc báo
cáo với người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp trên trực tiếp để đề nghị
Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội xem xét, kết luận về các yêu cầu, kiến nghị
đó.
Điều 47.
Trách nhiệm của Văn phòng Quốc hội, Văn phòng giúp việc Đoàn đại biểu Quốc hội
Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ
của mình, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng giúp việc Đoàn đại biểu Quốc hội có
trách nhiệm bảo đảm điều kiện vật chất và cung cấp thông tin, tư liệu cần thiết,
tổ chức phục vụ Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Hội đồng dân tộc, Uỷ ban của
Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội thực hiện các hoạt động
giám sát.
Chương 7:
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 48. Hiệu
lực thi hành
Luật này có hiệu lực thi hành từ
ngày 01 tháng 8 năm 2003.
Những quy định trước đây trái với
Luật này đều bãi bỏ.
Điều 49. Hướng
dẫn thi hành
Uỷ ban thường vụ Quốc hội hướng
dẫn thi hành Luật này.
Luật này đã được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 17 tháng 6
năm 2003.