BỘ
TƯ PHÁP
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 82-TP/NĐ
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 02 năm 1946
|
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Chiếu chỉ Sắc lệnh ngày 14
tháng 02 năm 1946 tổ chức lại tòa án quân sự
Để áp dụng sắc lệnh ấy,
NGHỊ ĐỊNH
Chương 1:
THÀNH LẬP TÒA ÁN QUÂN SỰ
Điều 1:
– Tòa án quân sự đặt tại các nơi sau này:
Ở Bắc kỳ tại Hà nội, Hải Phòng,
Ninh Bình;
Ở Trung kỳ tại Vinh, Thuận Hóa,
Phan Rang;
Ở Nam kỳ tại Sài Gòn, Mỹ Tho.
Điều 2:–
Ủy ban hành chính Trung kỳ trong địa hạt kỳ ấy có thể đề nghị lên bộ Tư pháp mở
thêm tòa án quân sự ở những nơi trọng yếu khác.
Ở Nam kỳ, Ủy ban hành chính đồng
ý với ông Chưởng lý tòa Thượng thẩm có thể ra nghị định lập thêm tòa án quân sự
ở những nơi cần, rồi sau trình lên bộ Tư pháp duyệt y.
Điều 3:–
Quản hạt các tòa án ở Bắc kỳ là:
Tòa án quân sự Hải
Phòng; Thành phố Hải Phòng và các tỉnh: Hải Dương, Kiến An, Hải Ninh và Quảng
Yên.
Tòa án quân sự Ninh Bình: các tỉnh
Ninh Bình, Nam Định, Phủ Lý, Hưng Yên và Thái Bình.
Tòa án quân sự Hà Nội: Thành phố
Hà Nội và các tỉnh khác thuộc Bắc Bộ mà chưa kể ở mục quản hạt các tòa án quân
sự Hải Phòng và Ninh Bình.
Điều 4:
– Quản hạt những tòa án quân sự ở Trung kỳ và Nam kỳ sẽ do nghị định của Ủy
ban Hành chính kỳ ấn định sau khi thỏa hiệp với ông Chưởng lý tòa Thượng thẩm.
Điều 5:
– Các công cáo ủy viên trực tiếp đặt dưới quyền kiểm soát của hai ông Bộ
trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng bộ Tư pháp và phải tuân theo huấn lệnh của hai
ông ấy cùng ký.
Ở Trung kỳ và Nam kỳ, ông Chủ tịch
Ủy ban hành chính kỳ thay mặt ông Bộ trưởng Bộ Nội vụ và ông Chưởng lý tòa Thượng
thẩm thay mặt Bộ trưởng bộ Tư pháp giữ quyền kiểm soát và cùng ra huấn lệnh
cho các ông công cáo ủy viên.
Điều 6:
– Trụ sở tòa án quân sự ở nơi nào thì đặt ngay sở tại tòa án đệ nhị cấp hay
tòa Thượng thẩm ở nơi ấy.
Tòa án quân sự, theo quyết định
của ông chánh án, có thể họp ngoài trụ sở được.
Điều 7:
– Tòa án quân sự xử công khai. Nếu có duyên cớ đặc biệt tòa có thể quyết định
xử kín.
Nhưng dù vào trường hợp nào tòa
án cũng thẩm nghị trong phong kín và tuyên bố bản án trước công chúng.
Điều 8:
– Bị cáo có quyền tự bênh vực lấy hay nhờ luật sư hoặc một người khác bênh
vực.
Ông chánh án theo lời yêu cầu của
bị cáo có thể cử một người ra bênh vực bị cáo.
Chương 2:
THỦ TỤC
a) Việc điều tra và thụ lý
Điều 9:
– Mỗi khi sẩy ra một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa thì bất cứ ai cũng phải báo ngay cho ty liêm phóng hoặc nhà chức
trách địa phương biết.
Ty liêm phóng trình lên công cáo
ủy viên để hỏi huấn lệnh. Nếu việc làm cần kíp ông giám đốc liêm phóng có
thể lãnh trách nhiệm điều tra ngay trước khi nhận được huấn lệnh của công cáo ủy
viên,
Ty liêm phóng khi mở cuộc điều
tra thu thập các tài liệu chứng cớ, hỏi các người làm chứng. Ông giám đốc liêm
phóng có thể ký lệnh tạm giam bị cáo. Tất cả mọi hành động cũ phải vào biên bản
lập hồ sơ kíp gửi lên công cáo ủy viên. Mỗi khi tạm giam một bị cáo ông giám đốc
liêm phóng phải báo cáo cho công cáo ủy viên biết.
Điều 10:
– Công cáo ủy viên nhận được hồ sơ có nhiệm vụ:
1) Hỏi ngay các bị báo rồi hạ
trát tạm giam bị cáo hay ra mệnh lệnh tạm tha;
2) Xem xét các biên bản và tài
liệu để bổ khuyết bằng cách hỏi thêm chứng cớ, tự mình hoặc giao liêm phóng điều
tra thêm;
3) Ra quyết định đình cứu hay
truy tố hay di lý.
Khi ra quyết định đình cứu
thì lập tức tha bị cáo và cho lưu trữ hồ sơ.
Khi quyết định truy tố thì giam
giữ bị cáo nếu họ không được tạm tha và chuyển hồ sơ sang ông chánh án tòa án
quân sự.
Khi quyết định di lý thì sau khi
tuyên bố không có thẩm, giao hồ sơ và bị cáo sang ông biện lý địa phương (hay
chủ tịch U. B. H. C. nơi nào chưa có tòa án biệt lập).
b) Việc dự thẩm
Điều 11:
– Nhận được hồ sơ, ông chánh án tòa án quân sự ra lệnh cho lục sự vào sổ thụ
lý rồi đòi các bị cáo đến trước mặt để hỏi xem họ có ai bênh vực không hay có
xin cử ai bênh vực không; lời hỏi và câu trả lời phải ghi vào một biên bản. Nếu
bị cáo xin cử một người bênh vực thì ông chánh án sẽ ra mệnh lệnh cử.
Xong ông chánh án và hai hội thẩm
chuyển hồ sơ cho nhau xem. Trong thời kỳ này ông chánh án, tự mình hay theo lời
đề nghị của hội thẩm, có thể ra mệnh lệnh cho công cáo ủy viên hay một ông hội
thẩm điều tra thêm một điểm, hỏi thêm chứng tá nào hay làm một việc gì có ích
cho sự phát minh sự thật. Ông chánh án có thể ra mệnh lệnh cho lục sự gọi thẳng
những người chứng mới ra phiên tòa.
Khi hồ sơ coi là đã đủ, ông
chánh án ra quyết định ấn định ngày, giờ và nơi xử án, và danh sách những người
làm chứng cần hỏi, để lục sự phát trát đòi. Bị cáo hay người bênh vực của
hắn, cũng như công cáo ủy viên, có thể xin ông chánh án chờ đợi những người chứng
mình nại ra.
Điều 12:
– Từ lúc việc đã thụ lý, luật sư hay người bênh vực cho bị cáo được quyền
xem hồ sơ tại phòng lục sự, yêu cầu ông chánh án cho điều tra thêm gọi chứng tá
thêm hay thi hành những việc có ích cho sự phát minh sự thực, và có thể giao
thiệp thẳng với bị cáo bằng thư từ hay tới thăm.
Muốn tới thăm bị cáo bị giam luật
sư hay người bênh vực phải xin phép ông chánh án. Khi vào thăm thì được quyền
nói chuyên riêng với bị cáo mà không bị kiểm soát.
Điều 13:
– Trong tời kỳ dự thẩm bị báo hay người bênh vực cho hắn hay một hội thẩm
có thể đệ lên ông chánh án đơn nại rằng tòa án quân sự không có thẩm quyền. Chính
ông chánh án cũng có thể tự mình nại điều ấy ra.
Khi ấy ông chánh án lập tức mời
hai hội thẩm lại họp phiên tòa quân sự trong phòng nghị luận để xét vấn đề thẩm
quyền. Lúc họp này công cáo ủy viên có thể đến bày tỏ ý kiến bằng miệng hay tờ
trình rồi ra khỏi phòng nghị luận để tòa án biểu quyết riêng.
Nếu tóa quyết nghị rằng việc
không thuộc quyền mình thì ông chánh án ra một mệnh lệnh tuyên bố rằng tòa án
quân sự không có thẩm quyển, hủy quyết định truy tố của công cáo ủy viên
và ra lệnh cho công cáo ủy viên giao bị báo và hồ sơ cho ông biện lý (hay chủ tịch
Ủy ban hành chính nơi nào chưa có tòa án biệt lập)
c) Việc xét xử tại tòa
Điều 14:
– Bị cáo và người bênh vực cho hắn phải nhận được giấy báo ngày và nơi xét
xử án của lục sự ít nhất là 2 hôm trước ngày họp phiên toà.
Lục sự phải phát trát đòi các
người chứng ra tòa.
Nếu một người chứng không tới hầu
tòa, tòa án sẽ quyết nghị có cần phải gọi lần nữa không hay bỏ người chứng ấy
đi.
Tòa có thể ra mệnh lệnh cho công
cáo ủy viên áp dẫn người làm chứng trốn tránh tời hầu tòa.
Điều 15:–
Tại phiên tòa ông chánh án điều khiển cuộc tranh luận và giữ trật tự trong hội
đồng. Nếu có kẻ làm rối trật tự ông chánh án có thể ra mệnh lệnh tức khắc tống
giam trong 48 giờ hay giao sang cho ông biện lý của tư pháp truy tố nếu phạm
vào hình luật.
Điều 16:–
Trong lúc thẩm vấn giữa phiên tòa ông chánh án và công cáo ủy viên có quyền
hỏi thẳng bị cáo và các người làm chứng, còn hai hội thẩm và người bệnh vực cho
bị cáo thì phải yêu cầu ông chánh án đặt câu hỏi. Chính bị cáo cũng có quyền
xin ông chánh án đặt câu hỏi.
Tòa có thể bác lời xin nếu câu hỏi
vô ích cho việc tìm sự thực trong vụ xử mà chỉ kéo giài cuộc thẩm vấn.
Điều 17:–
Chứng tá phải hỏi riêng từng người, trong lúc hỏi một người thì những người
chưa khai không đươc dự thính
Có thể đối chất các người chứng
với nhau hay với người bị cáo.
Nếu xét có người làm chứng có y
khai man để làm sai lạc sự thực thì công cáo ủy viên có thể tự sang ông biện lý
tư pháp đề truy tố về tội làm chứng gian.
Điều 18:–
Tóa án có toàn quyền ra mệnh lệnh để thi hành mọi việc có ích cho sự phát minh
sự thực
Điều 19:–
Sau khi các bị cáo và người làm chứng đã khai xong, công cáo ủy viên đứng lên
luận tội rồi đến lượt bị báo và người bào chữa cho bị cáo biện luận.
Bao giờ bị cáo cũng được nói sau
cùng.
Sau hết ông chánh án và hai hội
thẩm vào hội bàn trong phòng riêng rồi mới ra tuyên án trước công chúng.
Điều 20:–
Trong lúc thẩm vấn cho đến khi tuyên án, công cáo ủy viên, bị báo hay người
bênh vực hắn, co thể nại rằng tòa án quân sự không có thẩm quyền. Chính tòa án
cũng có thể tự mình nại điều ấy ra.
Khi ấy ông chánh án mở ngay cuộc
tranh luận về vấn đề thẩm quyền rồi tòa quyết nghị trước khi xét tới chính việc.
Nếu tòa quyết nghị không có thẩm
quyền thì tuyên án vô thẩm quyền, hủy quyết định truy tố của công cáo ủy viên
và ra lệnh cho công cáo ủy viên giao bị cáo và hồ sơ sang ông biện lý (hay chủ
tịch Ủy ban hành chính nơi nào chưa có tòa án biệt lập).
Nếu tòa quyết nghị có thẩm quyền
thì cuộc thẩm vấn lại tiếp tục liền.
Điều 21:–
Khi án tuyên tha bổng thì bản án đồng thời ra lệnh cho công cáo ủy viên lập tức
tha cho bị cáo về và hoàn lại các tang vật và truyền lục sự lưu trữ hồ sơ. Tiền
phí án, công quỹ chịu.
Điều 22:
– Khi án tuyên tử hình thì bản án phải ghi chép sự thi hành điều 11 của sắc
lệnh ngày 14 tháng 2 năm 1946 về quyền xin ân giảm.
Nếu tội nhân xin ân giảm thì ông
chánh án kíp gửi hồ sơ lên Chủ tịch Chính phủ, qua bộ Tư pháp chuyển đệ.
Điều 23:–
Công cáo ủy viên có nhiệm vụ thi hành các bản án.
Điều 24:–
Sau mỗi phiên tòa viên hội thẩm chuyên môn, ông cáo ủy viên, mỗi
người gửi riêng một tờ trình về bộ Tư pháp về những án đã tuyên và về tình hình
dư luận cùng ý kến riêng của mình.
Điều 25:
– Những tranh tụng xẩy ra trong khi thi hành các án của tòa án quân sự sẽ
do tòa ấy phân xử.
Điều 26:
– Nếu mỗi khoản trong sắc lệnh ngày 14 tháng 2 năm 1946 về tòa án quân sự
và trong nghị định này không được áp dụng, thì bị cáo, thân nhân hay người bênh
vực của hắn có thể đệ đơn khiếu nại lên Chủ tịch Chính phủ.
Ônh chánh án, các hội thẩm và
công cáo ủy viên cũng có quyền ấy.
Đơn phải gửi qua bộ Tư pháp.
Vị Chủ tịch có thể, chiếu sắc lệnh
số 64 ngày 23 tháng 11 năm 1945, quyết định mang ra tòa án đặc biệt xử những
nhân viên nào trong tòa án quân sự đã không tuân theo sắc lệnh và nghị định kể
trên.
Tòa án đặc biệt, ngoài sự trừng
phạt những nhân viên ấy, sẽ phán định về hiệu lực bản án của tòa án quân sự.
Điều 27:–
Nghị định này sẽ thi hành 48 giờ sau khi ký.
Điều 28:–
Ông Đổng lý sự vụ bộ Tư pháp chiếu nghị định thi hành.
|
BỘ TRƯỞNG BỘ TƯ PHÁP
Vũ Trọng Khánh
|