HỘI
ĐỒNG CHÍNH PHỦ
******
|
VIỆT
NAM
DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
04-CP
|
Hà
Nội, ngày 07 tháng 03 năm 1960
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH THỂ LỆ THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG
NHÀ NƯỚC
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
Theo đề nghị của ông Tổng
Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam;
Căn cứ Nghị quyết của Hội đồng Chính phủ trong phiên họp hội nghị Thường vụ của
Hội đồng Chính phủ ngày 17 tháng 02 năm 1960.
NGHỊ ĐỊNH:
Điều 1. –
Để tăng cường công tác quản lý tiền mặt, tăng cường tốc độ luân chuyển đồng tiền,
luân chuyển hàng hóa; để củng cố và mở rộng chế độ hợp đồng kinh tế giữa các xí
nghiệp quốc doanh và các cơ quan Nhà nước, củng cố chế độ hạch toán kinh tế của
các xí nghiệp, nay ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt qua Ngân hàng
Nhà nước kèm theo nghị định này.
Điều 2. –
Những quy định cũ trái với thể lệ thanh toán này đều bãi bỏ.
Điều 3. –
Thể lệ này thi hành kể từ ngày 10-3-1960.
Điều 4. –
Ông Tổng Giám đốc Ngân hàng Quốc gia Việt Nam
chịu trách nhiệm giải thích và quy định chi tiết thi hành thể lệ này.
|
TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Phạm Văn Đồng
|
THỂ LỆ
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT QUA NGÂN HÀNG
I. MỤC ĐÍCH
THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT
Điều 1. - Việc
tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt đối với các xí nghiệp quốc doanh, cơ
quan Nhà nước, đơn vị bộ đội, đoàn thể, xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã
mua bán và dần dần mở rộng diện thanh toán đối với các tổ chức kinh tế hợp tác
khác, nhằm mục đích:
- Tăng cường công tác quản lý tiền
mặt.
- Tăng thêm tốc độc luân chuyển
của đồng tiền, giảm bớt khối lượng tiền mặt trên thị trường, tiết kiệm được chi
phí lưu thông tiền tệ. Tập trung được tiền nhàn rỗi, để Nhà nước sử dụng vào
công cuộc kiến thiết kinh tế; đồng thời tăng cường tốc độ luân chuyển hàng hóa,
thúc đẩy tái sản xuất mở rộng, nhằm không ngừng cải thiện đời sống nhân dân.
- Góp phần củng cố và mở rộng chế
độ hợp đồng kinh tế giữa các xí nghiệp quốc doanh và các cơ quan Nhà nước; xóa
bỏ quan hệ vay mượn, tạm ứng, bán chịu lẫn nhau giữa các tổ chức kinh tế, các
cơ quan, củng cố chế độ hạch toán kinh tế của các xí nghiệp.
II. NGUYÊN TẮC
THANH TOÁN
Điều 2. - Tất
cả các khoản, thanh toán giữa các xí nghiệp quốc doanh với nhau, giữa các xí
nghiệp quốc doanh và cơ quan Nhà nước, đoàn thể, đơn vị bộ đội, xí nghiệp công
tư hợp doanh và các tổ chức kinh tế hợp tác, đều phải tập trung thanh toán tại
Ngân hàng Nhà nước.
Các xí nghiệp quốc doanh, cơ
quan Nhà nước, đoàn thể, đơn vị bộ đội, xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã
đều phải mở tài khoản thanh toán tại Ngân hàng Nhà nước.
Ngoài số tiền mặt được giữ tại
quỹ của xí nghiệp, cơ quan Nhà nước, đơn vị bộ đội, với sự thỏa thuận của Ngân
hàng, tất cả tiền mặt đều bắt buộc phải gửi vào Ngân hàng Nhà nước.
Các khoản thanh toán với nhau
(trả tiền, thu tiền) đều phải tiến hành thông qua nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà
nước.
Điều 3. - Tất
cả các xí nghiệp quốc doanh, cơ quan Nhà nước, bộ đội, giao dịch mua bán với
nhau phải có hợp đồng kinh tế hợp lệ và bắt buộc phải thanh toán với nhau theo
đúng những điều đã ký kết trong hợp đồng kinh tế, và đúng với những nguyên tắc
thanh toán quy định trong thể này.
Ngân hàng Nhà nước được quyền từ
chối trách nhiệm làm trung gian thanh toán, nếu đôi bên giao dịch mua bán không
có hợp đồng kinh tế, không đủ giấy tờ giao dịch hợp lệ. Trong trường hợp này,
Ngân hàng Nhà nước chỉ đứng ra thu hộ.
Điều 4. – Khi
làm nhiệm vụ trung tâm thanh toán, Ngân hàng Nhà nước sẽ căn cứ theo hợp đồng
kinh tế và những điều quy định trong thể lệ này, đảm bảo thanh toán chính xác
và kịp thời.
Mọi sai lầm thiếu sót của Ngân
hàng Nhà nước nếu gây thiệt hại và tài chính cho bên bán hay bên mua, thì Ngân
hàng bồi thường thiệt hại về tài chính đó.
Nếu bên trả tiền từ chối chấp nhận
thanh toán mà không có lý do chính đáng, thì Ngân hàng Nhà nước có quyền hoặc
trích tài khoản của bên trả để thanh toán cho bên thu, hoặc trích giữ phần tiền
còn đang tranh chấp trong hợp đồng kinh tế, để chờ Hội đồng trọng tài quyết định.
Việc trích tài khoản để thanh toán sẽ làm theo thứ tự ưu tiên nói ở điều 5 dưới
đây.
Điều 5. - Đến
kỳ hạn trả tiền, bên trả phải có đủ tiền tại tài khoản Ngân hàng Nhà nước để
thanh toán cho bên thu, nếu số tiền tại tài khoản không đủ, hoặc không còn để
thanh toán cho bên thu, thì bên trả phải chịu hoàn toàn trách nhiệm. Trong trường
hợp này Ngân hàng Nhà nước sử dụng một trong hai biện pháp sai đây để giải quyết:
a) Hoặc cho vay để có thêm số tiền
tại khoản đủ thanh toán, bên trả bắt buộc phải vay.
b) Hoặc chờ đợi tài khoản bên trả
có thêm tiền sẽ thanh toán. Trường hợp này, bên trả phải chịu lãi cho bên thu,
đúng theo thể lệ tín dụng Ngân hàng.
Khi trích tài khoản để thanh
toán, Ngân hàng Nhà nước phải giải quyết theo thức tự ưu tiên sau đây:
- Thứ nhất: Trả lương và phụ cấp
hoặc trợ cấp khác cho công nhân, viên chức
- Thứ hai: Nộp thuế, nộp khấu
hao cơ bản, lợi nhuận vào ngân sách Nhà nước
- Thứ ba: Các khoản về hàng hóa
và cung cấp lao vụ
- Thứ tư: Trả nợ Ngân hàng
- Thứ năm: Nộp khấu hao sửa chữa
lớn, hay các khoản khác theo điều lệ của Nhà nước, hoặc nội quy của xí nghiệp,
cơ quan.
- Thứ sáu: Các khoản khác
III. THỂ THỨC
THANH TOÁN
Điều 6. – Căn
cứ tình hình tổ chức kinh tế và trình độ quản lý tài vụ của các xí nghiệp quốc
doanh, các cơ quan hiện nay, và để thích ứng với nhu cầu thanh toán trong những
trường hợp khác nhau, Ngân hàng Nhà nước có những thể thức thanh toán khác
nhau:
A. Thể thức thanh toán giữa
hai địa phương khác nhau qua hai đơn vị Ngân hàng:
1. Thanh toán theo thể thức chuyển tiền:
Thể thức thanh toán bằng chuyển tiền,
áp dụng giữa hai địa phương trong việc chuyển tiền qua lại phi mậu dịch như: điều
chuyển vốn, phân phối vốn, tập trung vốn giữa các cơ quan Nhà nước, các xí nghiệp
quốc doanh, các đơn vị bộ đội, các đoàn thể thường là trong nội bộ từng hệ thống
của cơ quan xí nghiệp.
2. Thanh toán theo lối nhờ thu nhận trả:
Thể thức thanh toán này, chỉ áp
dụng cho những tổ chức kinh tế thuộc hai địa phương khác nhau có hợp đồng kinh
tế thường xuyên, tín nhiệm lẫn nhau.
Theo thể thức này, bên bán phải
gửi hàng đi rồi, mới nhờ Ngân hàng Nhà nước thu tiền. Bên mua phải nhận giấy
đòi nợ, mới được sử dụng hàng hóa đó.
Thời hạn quy định cho bên bán nộp
giấy tờ đến Ngân hàng Nhà nước để nhờ thu tối đa là 3 ngày, kể từ ngày gửi hàng
đi. Nếu bên bán hàng ở xa Ngân hàng trên 10 cây số, thì có thể kéo dài thêm 2
ngày nữa. Quá thời hạn đó, Ngân hàng Nhà nước chỉ nhận làm nhiệm vụ thanh toán,
nhưng không cho vay thanh toán.
Thời hạn quy định để cho bên mua
nhận giấy đòi tiền là 3 ngày (trừ ngày nghỉ) kể từ ngày nhận được giấy báo đòi
tiền của Ngân hàng. Nếu bên mua ở xa Ngân hàng trên 10 cây số thì có thể kéo
dài thêm 2 ngày nữa. Quá thời hạn đó, nếu bên mua không có ý kiến gì, thì coi
như bên mua đã nhận thanh toán tiền mua hàng.
Ngoài thời hạn quy định trên,
bên mua có thêm hai ngày để chuẩn bị trả tiền. Quá thời hạn đó, Ngân hàng Nhà
nước sẽ trích tài khoản của bên mua để chuyển trả cho bên bán, như đã quy định ở
điều 4 và 5.
Trường hợp bên mua từ chối không
nhận một phần hay toàn bộ giá trị hàng hóa đã ghi trong hợp đồng kinh tế, Ngân
hàng Nhà nước sẽ căn cứ các điều khoản trong hợp đồng đã ký kết giữa hai bên mà
giải quyết đúng theo điều 4 và 5. Bên mua phải chịu trách nhiệm giữ gìn cẩn thận
số hàng hóa đó và không được sử dụng trong thời gian chối nhận và chưa thanh
toán. Nếu bên mua đã sử dụng hàng hóa, sẽ coi như bên mua đã nhận thanh toán
toàn bộ số hàng hóa đó. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiến hành trích tài khoản của bên
mua để thanh toán cho bên bán.
Trong hợp đồng kinh tế có quy định
thời gian kiểm nghiệm, trong hạn định thời gian này, nếu bên mua phát hiện có
loại hàng hóa nào không đúng với những điều khoản đã ký kết trong hợp đồng (phần
2 điểm 6 của thông tư số 032-TTg ngày 1-2-1960), thì Ngân hàng Nhà nước sẽ
trích số tiền của bên bán đã trả cho bên mua để hoàn trả lại cho bên mua.
3. Thanh toán theo thư tín dụng:
Thể thức thanh tóan theo thư tín
dụng chỉ áp dụng cho những tổ chức kinh tế ở hai địa phương khác nhau giao dịch
mua bán hàng hóa với nhau không có quan hệ hợp đồng thường xuyên, chỉ ký kết hợp
đồng từng lần, hoặc chưa tín nhiệm lẫn nhau về phương diện tài vụ hay về phương
tiện chấp hành hợp đồng.
Theo thể thức này, bên mua phải
ký gửi vào Ngân hàng Nhà nước số tiền tương đương để đủ trả tiền mua hàng cho
bên bán. Bên bán sau khi đã gửi hàng đi, xuất trình các chứng từ cho Ngân hàng
Nhà nước, sẽ thanh toán tiền hàng sau khi Ngân hàng nhận xét hai bên mua và bán
thực hiện đúng hợp đồng, hoặc mọi giấy tờ ký kết khác.
Ngân hàng chỉ mở một thư tín dụng
cho mỗi đơn vị bán hàng. Muốn giao dịch mua bán với nhiều đơn vị bán hàng thì
phải mở nhiều thư tín dụng.
Thời hạn giá trị của thư tín dụng
là một tháng. Trường hợp kéo dài hạn phải được đôi bên đồng ý và có sự thỏa thuận
của Ngân hàng Nhà nước.
Hết thời hạn giá trị, nếu số tiền
ghi ở thư tín dụng không sử dụng hết, thì Ngân hàng Nhà nước sẽ trả số tiền còn
lại cho bên mua và hủy thư tín dụng đó.
Tiền gửi thư tín dụng không có
lãi.
Thư tín dụng chủ yếu là dùng để
thanh toán một đợt mua hàng hóa, thường là số tiền lớn, không dùng thanh toán lặt
vặt từng món nhỏ.
4. Thanh toán theo tài khoản đặc biệt:
Thể thức thanh toán theo tài khoản
đặc biệt áp dụng cho một trong hai bên mua và bán chưa nằm trong diện buộc phải
ký kết hợp đồng kinh tế (chủ yếu là mậu dịch quốc doanh thu mua nông sản phẩm)
cần chuyển tiền đến một địa phương khác để mua hàng.
Tài khoản đặc biệt đứng tên đơn
vị mua hàng, tài khoản này mở tại Ngân hàng Nhà nước nơi mua hàng, để thanh
toán cho nhiều đơn vị bán hàng khác nhau, số lượng hàng hóa và mặt hàng khác
nhau.
Khi tài khoản đặc biệt hết tiền,
đơn vị mua có thể xin chuyển thêm tiền vào tài khoản đặc biệt bằng thể thức
chuyển tiền. Có thể rút tiền mặt ở tài khoản đặc biệt để trả tiền mua hàng.
Tiền gửi tài khoản đặc biệt
không có lãi.
B. Thể thức thanh toán trong
một thành phố qua một hay hai đơn vị Ngân hàng:
1. Thanh toán bằng séc:
Bên mua, sau khi nhận hàng, phát
hành séc trả trực tiếp cho bên bán, bên bán mang séc đến Ngân hàng Nhà nước gửi
tiền vào tài khoản của đơn vị mình. Tuyệt đối không được chuyển nhượng tấm séc
đó cho một đơn vị thứ ba.
Chủ tài khoản phải bảo quản séc
chu đáo. Nếu séc bị mất cắp hay bị lợi dụng thì chủ tài khoản phải chịu hoàn
toàn thiệt hai. Trường hợp mất một tờ hay nhiều séc chưa phát hành thì chủ tài
khoản phải lập tứ báo cho Ngân hàng Nhà nước biết và phải công bố trên báo để
tránh kẻ gian lợi dụng. Nhưng nếu bị lợi dụng thì chủ tài khoản vẫn phải chịu
trách nhiệm. Nếu mất một hay nhiều tờ séc đã phát hành, thì cũng phải báo cho cả
đơn vị bán hàng và Ngân hàng Nhà nước biết. Nếu bị lợi dụng, thì chủ tài khoản
vẫn phải chịu trách nhiệm.
Thời gian có giá trị một tờ séc
là 5 ngày, kể từ ngày chủ tài khoản ký phát hành tờ séc. Quá thời hạn đó, Ngân
hàng Nhà nước không nhận thanh toán:
Séc có hai loại: séc tiền mặt,
séc chuyển khoản.
Chủ tài khoản chỉ được quyền
phát hành séc trong phạm vi số tiền trong tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà
nước, nếu phát séc quá mức, đơn vị phát hành phải chịu trách nhiệm. Trường hợp
vi phạm kỷ luật phát hành séc, Ngân hàng Nhà nước sẽ truy tố ra Tòa án xét xử,
hoặc đề nghị cơ quan chính quyền có thẩm quyền thi hành kỷ luật hành chính.
2. Thanh toán bằng séc bảo chi hoặc séc định
ngạch:
- Séc bảo chi dùng để thanh toán
từng lần, tức là bảo chi từng tờ séc trong những trường hợp giao dịch mà bên
bán không tín nhiệm bên mua. Bên bán đòi hỏi phải có Ngân hàng Nhà nước ký bảo
đảm ở phía sau tờ séc, để được đảm bảo chắc chắn thu tiền bán hàng.
Séc bảo chi hạn chế trong việc
thanh toán những số tiền tương đối lớn (từ 100đồng trở lên).
- Séc định ngạch là séc Ngân
hàng Nhà nước bảo chi trọn một quyển séc cho một số tiền nhất định. Đơn vị trả
có thể phát hành những tờ séc một bất cứ với số tiền nào, miễn là tất cả séc
phát hành trong quyển séc đó không vượt quá số tiền định ngạch. Mỗi quyển séc định
ngạch chỉ được dùng để trả tiền cho một đơn vị nhất định, để đơn vị này tự kiểm
soát lấy trong phạm vi bảo chi. Thể thức này áp dụng cho việc trả tiền chuyên
chở hàng hóa thường xuyên, khi nào cả hai bên đều có cơ quan cùng trong một
thành phố, cùng mở tài khoản ở Ngân hàng Nhà nước cùng một thành phố, nhưng phải
thanh toán tiền chuyên chở hàng hóa ở một nơi khác.
Thể thức thanh toán này không áp
dụng để thanh toán hàng hóa
3. Thanh toán theo giấy ủy nhiệm chi :
Thể thức thanh toán theo ủy nhiệm
chỉ áp dụng cho những trường hợp hai bên giao dịch mua bán không tiện dùng séc.
Theo thể thức này, bên mua lập
giấy ủy nhiệm chi giao cho Ngân hàng Nhà nước trích tài khoản của mình, chuyển
qua tài khoản của bên bán.
Trong trường hợp giao dịch mua
bán hàng hóa theo một kế hoạch nhất định, hay cung cấp lao vụ theo một hợp đồng
dài hạn, bên mua có thể lập giấy ủy nhiệm chi theo kế hoạch. Ngân hàng Nhà nước
căn cứ giấy ủy nhiệm chi đó, chuyển trả tiền cho bên bán hay bên cung cấp lao vụ.
Đến cuối kế hoạch, hay cuối hạn định được đôi bên thỏa thuận (đã ghi trên giấy ủy
nhiệm chi) thì Ngân hàng Nhà nước sẽ thanh toán số còn lại cho bên trả hoặc bên
thu.
4. Thanh toán theo giấy ủy nhiệm thu:
Thể thức thanh toán theo giấy ủy
nhiệm, chủ yếu áp dụng để thanh toán các khoản về cung ứng lao vụ như trả tiền:
điện, nước, hơi đốt, điện thoại, điện tín, thuê nhà, thuê xe…
Theo thể thức này, đơn vị cung ứng
lao vụ lập giấy ủy nhiệm thu, nhờ Ngân hàng Nhà nước nước thu, đồng thời gửi
hóa đơn cho đơn vị trả. Sau thời hạn 5 ngày kể từ ngày Ngân hàng Nhà nước nhận
được giấy ủy nhiệm thu, nếu đơn vị trả không có ý kiến gì, Ngân hàng sẽ trích
tài khoản của đơn vị trả để chuyển cho đơn vị thu.
IV. ĐIỀU KHOẢN
THI HÀNH
Điều 7. – Ngân
hàng quốc gia Việt Nam cần có thông tư giải thích nội dung cụ thể từng thể thức
thanh toán, hướng dẫn các xí nghiệp quốc doanh, cơ quan Nhà nước, đơn vị bộ đội,
đoàn thể xí nghiệp công tư hợp doanh, hợp tác xã, lựa chọn thể thức thanh toán
thích hợp, tiện lợi cho thống kê kinh tế và chức năng giám đốc hoạt động kinh tế
của Ngân hàng Nhà nước, để thi hành thể lệ thanh toán này.