PHỦ
THỦ TƯỚNG
******
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
980-TTg
|
Hà
Nội, ngày 27 tháng 07 năm 1956
|
NGHỊ ĐỊNH
BAN HÀNH BẢN ĐIỀU LỆ ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH, DÂN QUÂN DU KÍCH,
THANH NIÊN XUNG PHONG BỊ THƯƠNG TẬT, BẢN ĐIỀU LỆ ƯU ĐÃI GIA ĐÌNH LIỆT SĨ VÀ BẢN
ĐIỀU LỆ ƯU ĐÃI GIA ĐÌNH QUÂN NHÂN
THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
Theo đề nghị của ông Bộ trưởng
Bộ Thương binh,
Theo nghị quyết của Hội đồng Chính phủ
NGHỊ ĐỊNH :
Điều 1. –
Nay ban hành:
1) Bản điều lệ ưu đãi thương
binh, bệnh binh, dân quân du kích, thanh niên xung phong bị thương tật.
2) Bản điều lệ ưu đãi gia đình
liệt sĩ
3) Bản điều lệ ưu đãi gia đình
quân nhân
Điều 2. –
Các chi tiết thi hành các điều lệ này do các Bộ Thương binh, Quốc phòng, Nội vụ
và Tài chính ấn định.
Điều 3. –
Các thể lệ ban hành trước đây trái với các bản điều lệ này đều bãi bỏ.
Điều 4. –
Các ông Bộ trưởng Bộ Thương binh, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Tổng tư lệnh, Bộ trưởng
Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tài chính chịu trách nhiệm thi hành nghị định này.
|
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Phan Kế Toại
|
ĐIỀU LỆ
ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH, BỆNH BINH, DÂN QUÂN, DU KÍCH, THANH
NIÊN XUNG PHONG BỊ THƯƠNG TẬT
Điều 1. – Thương binh,
bệnh binh, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật là những người
có công đối với Tổ quốc, Chính phủ và nhân dân luôn ghi nhớ công lao đó. Để đền
đáp một phần nào, bản điều lệ này, ngoài việc quy định những vinh dự về tinh thần
còn nhằm mục đích giúp đỡ thương binh, bệnh binh, dân quân, du kích, thanh niên
xung phong bị thương tật tổ chức đời sống và phát huy khả năng của mình.
Chương 1:
ĐỊNH NGHĨA
Điều 2. – Gọi
là thương binh và được hưởng các khoản ưu đãi quy định trong bản điều lệ này những
quân nhân thuộc đội quân đội nhân dân Việt nam, những chiến sĩ thuộc các đội vũ
trang có trước ngày thành lập quân đội, những chiến sĩ thuộc các đơn vị cảnh vệ
và những chiến sĩ thuộc các đội vũ trang có trước ngày thành lập các đơn vị cảnh
vệ bị thương trong thời gian tại ngũ vì chiến đấu với địch, vì thừa hành công vụ,
vì cứu người.
Điều 3. – Gọi
là bệnh binh và được hưởng các khoản ưu đãi quy định trong bản điều lệ này, những
quân nhân thuộc quân đội nhân dân Việt nam, những chiến sĩ thuộc các đơn vị cảnh
vệ trong khi chiến đấu hay là thừa hành công vụ mắc bệnh lâu mới khỏi hay không
chữa khỏi được, vì không đủ điều kiện sức khỏe ở trong quân đội cho nên được giải
ngũ.
Điều 4. – Gọi
là dân quân (kể cả tự vệ), du kích, thanh niên xung phong bị thương tật và được
hưởng các khoản ưu đãi quy định trong bản điều lệ này.
- Những quân nhân du kích, bị
thương vì tham gia chiến đấu với địch hay là vì gỡ mìn bom.
- Những thanh niên xung phong bị
thương vì thừa hành công vụ trong thời kỳ kháng chiến hay là vì gỡ mìn bom sau
kháng chiến.
Chương 2:
ƯU ĐÃI THƯƠNG BINH
MỤC I. - TỔ
CHỨC ĐỜI SỐNG VÀ PHÁT HUY KHẢ NĂNG CỦA THƯƠNG BINH
Điều 5. – Thương
binh, sau khi giải ngũ được giúp đỡ để tổ chức đời sống và phát huy khả năng của
mình như sau:
1) Nếu vì thương tật nặng, không
thể làm việc được nữa, và không tiện về với gia đình, sẽ được Chính phủ nuôi dưỡng
và tùy hoàn cảnh, dần dần được tạo điều kiện để có thể làm việc được;
2) Nếu có hoàn cảnh về với gia
đình, sẽ được giúp đỡ trở về gia đình làm ăn, và có thể tham gia công tác ở địa
phương.
3) Nếu không có hoàn cảnh về với
gia đình, mà có khả năng canh tác, sẽ được nhân dân đón về xã và giúp đỡ làm
ăn.
4) Nếu có khả năng làm công tác
hay là có nghề chuyên môn, tùy hoàn cảnh sẽ được giúp đỡ để làm công tác hay là
nghề chuyên môn đó.
5) Nếu không thuộc các trường hợp
kể trên, tùy hoàn cảnh sẽ được giúp đỡ học nghề thích hợp để làm ăn.
MỤC II. PHỤ CẤP
THƯƠNG TẬT
Điều 6. – Thương
binh tùy theo mức độ thương tật nặng hay là nhẹ, và mất sức lao động nhiều hay
là ít, được xếp và một trong sáu hạng thương tật đã được quy định do nghị định
Liên bộ Thương binh-Quốc phòng-Y tế-Tài chính số 18-NĐ ngày 17 tháng 11 năm
1954 để được hưởng phụ cấp thương tật.
Phụ cấp thương tật lĩnh từng quý
3 tháng, vào đầu mỗi quý.
Suất phụ cấp thương tật do nghị
định Liên bộ Thương binh- Quốc phòng- Tài chính ấn định.
MỤC III. TRỢ
CẤP VỀ ĐỊA PHƯƠNG SẢN XUẤT VÀ PHỤ CẤP SẢN XUẤT HAY AN DƯỠNG
Điều 7. – Thương
binh về địa phương làm ăn, tùy trường hợp được trợ cấp một số tiền để thêm vào
vốn sản xuất trong thời gian đầu. Trợ cấp gồm có hai loại:
- Loại trợ cấp đối với những
thương binh về sống với gia đình.
- Loại trợ cấp đối với thương
binh được nhân dân đón về xã.
Tiền trợ cấp do nghị định Liên bộ
Thương binh-Quốc phòng-Tài chính ấn định.
Điều 8. – Thương
binh về địa phương làm ăn được hưởng phụ cấp sản xuất, hay phụ cấp an dưỡng
tính theo hạng thương tật.
Thương binh thuộc các hạng
thương tật 2, 3, 4, 5 được hưởng phụ cấp sản xuất
Thương binh thuộc hạng đặc biệt
và hạng 1 được hưởng phụ cấp an dưỡng.
Phụ cấp sản xuất hay an dưỡng
lĩnh từng quý 3 tháng, vào đầu mỗi quý như phụ cấp thương tật.
Suất phụ cấp sản xuất hay an dưỡng
do nghị định Liên bộ Thương binh-Quốc phòng-Tài chính ấn định.
MỤC IV. ƯU
ĐÃI VỀ RUỘNG ĐẤT
Điều 9. – Thương
binh thiếu ruộng cày thì được ưu đãi trong việc chia cấp ruộng như đã quy định
trong Luật cải cách ruộng đất.
MỤC V. CÁC ƯU
ĐÃI KHÁC
Ưu đãi về thuế
nông nghiệp:
Điều 10.
– Trong chính sách thuế nông nghiệp thương binh được ưu đãi như sau:
1) Tính nhân khẩu nông nghiệp:
Thương binh ở trại thương binh hay là đi công tác, đi học thì đươc tính là
một nhân khẩu nông nghiệp trong gia đình. Thương binh sống ở nước khác, thành lập
một nông hộ riêng, thì tính nhân khẩu nông nghiệp ở nơi đó, không tính ở gia
đình nữa.
2) Miễn thuế và giảm thuế: Thương
binh về địa phương tham gia sản xuất nông nghiệp được miễn thuế hoặc giảm thuế
trong hai năm kể từ ngày về địa phương như sau:
- Nếu thương binh sống một mình,
thì ruộng đất của thương binh được miễn thuế.
- Nếu thương binh sống chung với
gia đình thì gia đình thương binh được giảm thuế là 50 kilô thóc một năm; nhưng
nếu thuế đóng chưa tới 50ki-lô thì được miễn thuế.
Nếu thương binh về địa phương
sau một thời gian rồi mới chuyển sang sản xuất nông nghiệp thì vẫn được miễn
hay giảm thuế nông nghiệp trong hai năm kể từ ngày sản xuất nông nghiệp.
Chiếu cố
trong việc tuyển dụng và đi học
Điều 11.
– Trong việc tuyển dụng công nhân viên vào các cơ quan và xí nghiệp, học
sinh vào các trường chuyên nghiệp hay là văn hóa, thì đối với thương binh, sẽ
châm chước một phần về điều kiện sức khỏe, trình độ văn hóa, năng lực chuyên
môn.
Con của thương binh được chiếu cố
trong việc nhận vào các trường học.
Ưu đãi khi
đau ốm
Điều 12.–
Thương binh về địa phương, nếu vết thương trở lại hay bị đau ốm thì được ưu
tiên khám bệnh và nằm điều trị ở bệnh viện. Trong thời gian hai năm kể từ ngày
về địa phương thương binh được miễn trả tiền thuốc và tiền ăn ở bệnh viện. Sau
2 năm, nếu vết thương trở lại, thương binh vẫn được miễn trả tiền thuốc và tiền
ăn nhưng nếu bị đau ốm mà không phải vì vết thương trở lại, thương binh vẫn được
miễn trả tiền thuốc và tiền ăn nhưng nếu bị đau ốm mà không phải vì vết thương
trở lại thì thương binh sẽ trả tiền thuốc và tiền ăn, trừ trường hợp túng thiếu
thì có thể được miễn hoặc giảm một phần.
Các sự chiếu
cố của các ngành
Điều 13 – Các
ngành như quốc doanh vận tải, điện ảnh, văn công, mậu dịch, ngân hàng…tùy theo
khả năng của ngành mình sẽ ra những quy định cụ thể để chiếu cố thương binh.
Huy hiệu
thương binh
Điều 14. – Thương
binh được cấp huy hiệu thương binh.
Sự giúp đỡ của
địa phương
Điều 15. – Thương
binh về địa phương được chính quyền và các đoàn thể nhân dân giúp đỡ về vật chất
và tinh thần. Trong các cuộc vui, ngày lễ, thương binh được mời ngồi chỗ tốt;
tùy theo khả năng được sắp xếp tham gia công tác ở địa phương.
Chương 3:
ƯU ĐÃI BỆNH BINH
Điều 16. – Bệnh
binh vì điều kiện sức khỏe mà giải ngũ thì được giúp đỡ để tổ chức đời
sống như sau:
1) Nếu vì mắc bệnh nặng, không
thể làm việc được nữa và không tiện về với gia đình, sẽ được Chính phủ nuôi dưỡng,
và điều trị.
2) Nếu có hoàn cảnh về với gia
đình ở địa phương sẽ được giúp đỡ để về địa phương làm ăn, hay an dưỡng.
Điều 17. – Bệnh
binh về địa phương được hưởng những khoản trợ cấp sau đây:
1) Trợ cấp về địa phương: do
nghị định Liên bộ Thương binh-Quốc phòng- Tài chính ấn định.
2) Trợ cấp bồi dưỡng: để
bồi dưỡng thêm về sức khỏe do nghị định Liên bộ Thương binh-Quốc phòng-Tài
chính ấn định.
Điều 18. – Bệnh
binh thiếu ruộng cày thì được ưu đãi trong việc chia cấp ruộng đất như
đã quy định trong Luật cải cách ruộng đất.
Điều 19. – Bệnh
binh được ưu đãi về thuế nông nghiệp như sau:
1) Tính nhân khẩu nông nghiệp:
Bệnh binh ở trại thương binh được tính là một nhân khẩu nông nghiệp trong
gia đình. Bệnh binh sống ở nơi khác, thành lập một nông hộ riêng, thì tính nhân
khẩu nông nghiệp ở nơi đó, không tính ở gia đình nữa.
2) Miễn giảm thuế: Bệnh
binh có bệnh nhẹ và có điều kiện tham gia sản xuất nông nghiệp ở địa phương thì
được miễn, giảm thuế như thương binh.
Điều 20. – Bệnh
binh được chiếu cố trong việc khám bệnh và nằm điều trị ở bệnh viện và
được miễn trả tiền thuốc và tiền ăn ở bệnh việc trong thời gian còn là bệnh
binh.
Điều 21. – Bệnh
binh về địa phương làm ăn hay an dưỡng được chính quyền và các đoàn thể nhân
dân giúp đỡ về vật chất và tinh thần. Trong các cuộc vui, ngày lễ, được
mời ngồi chỗ tốt. Sau khi bệnh đã khỏi được sắp xếp tham gia công tác ở địa
phương tùy theo khả năng.
Điều 22. – Mỗi
năm, bệnh binh được bệnh viện của nhà nước khám lại một lần. Nếu bệnh đã khỏi hoặc
giảm đến mức không cần phải điều dưỡng nữa thì không gọi là bệnh binh nữa.
CHƯƠNG 4:
ƯU ĐÃI DÂN QUÂN, DU
KÍCH, THANH NIÊN XUNG PHONG BỊ THƯƠNG TẬT
Điều 23. – Dân
quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật được chính quyền và các đoàn
thể nhân dân địa phương giúp đỡ trong công việc làm ăn.
Điều 24. – Dân
quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật, nếu thiếu ruộng cày thì được
ưu đãi trong việc chia cấp ruộng đất, như đã quy định đối với thương
binh trong Luật cải cách ruộng đất.
Điều 25. – Nếu
vết thương trở lại, dân quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật được
chiếu cố trong việc khám bệnh và điều trị ở bệnh viện và được miễn trả
tiền ăn và tiền thuốc ở bệnh viện.
Điều 26. – Dân
quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật tùy theo mức độ thương tật nặng
hay nhẹ và mất sức lao động nhiều hay là ít, được xếp vào một trong sáu hạng
thương tật đã được quy định do nghị định Liên bộ Thương binh-Quốc phòng-Y tế-Tài
chính số 18-NĐ ngày 17 tháng 11 năm 1954 để được hưởng phụ cấp thương tật và
hưởng phụ cấp sản xuất hay an dưỡng nếu làm ăn ở địa phương.
Điều 27. – Dân
quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật đã thoát ly sản xuất thì sẽ
được giúp đỡ để tổ chức đời sống như đã quy định đối với thương binh
trong điều 5 bản điều lệ này, và nếu trở về địa phương làm ăn thì sẽ được hưởng
một khoản trợ cấp về địa phương sản xuất, do nghị định Liên bộ Thương
binh- Quốc phòng-Tài chính ấn định.
CHƯƠNG 5:
NHIỆM VỤ CỦA THƯƠNG
BINH, BỆNH BINH, DÂN QUÂN, DU KÍCH, THANH NIÊN XUNG PHONG BỊ THƯƠNG TẬT
Điều 28. – Ngoài
những sự ưu đãi quy định trong bản điều lệ này, thương binh, bệnh binh, dân
quân, du kích, thanh niên xung phong bị thương tật có quyền lợi như mọi công
dân khác và có nhiệm vụ chấp hành các chủ trương, chính sách của Chính phủ,
tuân theo pháp luật, giữ vững và phát huy tác dụng gương mẫu của người chiến sĩ
cách mạng.
ĐIỀU LỆ
VỀ ƯU ĐÃI GIA ĐÌNH LIỆT SĨ
Điều 1. – Bản
điều lệ này quy định để đền đáp công ơn liệt sĩ, ưu đãi gia đình liệt sĩ (phụ lục
về định nghĩa liệt sĩ kèm theo).
Bản điều lệ này áp dụng đối với
các liệt sĩ mất từ 1925 trở về sau. Các liệt sĩ mất từ 1925 trở về trước là những
tiên liệt, không thuộc phạm vi quy định trong bản điều lệ này.
Điều 2. – Gia
đình liệt sĩ gồm những thân nhân của liệt sĩ xếp theo thứ tự trước sau như dưới
đây:
- Vợ hay chồng
- Con
- Cha mẹ đẻ
- Em dưới 16 tuổi
Nếu không có những người này thì
người nào đã thực sự nuôi nấng liệt sĩ từ bé đến lớn, hoặc người mà liệt sĩ có nhiệm
vụ nuôi nấng, do nhân dân xã, khu phố công nhận, đuợc coi là gia đình liệt sĩ.
Nếu liệt sĩ hy sinh từ lâu, gia
đình không có giấy tờ chứng nhận, nhưng được nhân dân và chính quyền xã hoặc
khu phố thừa nhận thì được xét và coi là gia đình liệt sĩ.
Điều 3. – Gia
đình liệt sĩ được tặng thưởng bằng “Tổ quốc ghi công” và giấy chứng nhận “Gia
đình liệt sĩ”
Điều 4. – Gia
đình liệt sĩ được nhân dân và chính quyền tùy hoàn cảnh chú ý giúp đỡ trong việc
làm ăn.
Điều 5. – Gia
đình liệt sĩ thiếu ruộng cày được ưu đãi trong việc chia cấp ruộng đất. Trong
việc chia trâu bò, nông cụ, lương thực và tài sản tịch thu, trưng thu, trưng
mua của địa chủ, gia đình liệt sĩ được chiếu cố.
Điều 6. – Gia
đình liệt sĩ được tính mỗi liệt sĩ là một nhân khẩu trong thuế nông nghiệp.
Điều 7. – Gia
đình liệt sĩ được chiếu cố trong việc tuyển dụng vào cơ quan, xí nghiệp, trường
chuyên nghiệp v .v… con em liệt sĩ được chiếu cố trong việc tuyển lựa học sinh
vào các trường học và được giúp đỡ trong việc học tập. Con em liệt sĩ nghèo được
ưu tiên trong việc xét cấp học bổng.
Điều 8. – Trong
các ngày lễ, cuộc vui, gia đình liệt sĩ được mời ngồi chỗ tốt.
Điều 9. – Các
ngành như Mậu dịch, Ngân hàng, Quốc doanh vận tải, Điện ảnh sẽ ra những quy định
chiếu cố các gia đình liệt sĩ theo khả năng của mình.
Điều 10. – Trong
việc Chính phủ cứu tế hay cho nhân dân vay, gia đình liệt sĩ được chiếu cố.
Điều 11. – Ngoài
các khoản ưu đãi nói trên, gia đình liệt sĩ được cấp một khoản tiền tuất do Thủ
tướng Phủ ấn định.
Điều 12. – Ngoài
các khoản ưu đãi nói trong bản điều lệ này, gia đình liệt sĩ có các quyền lợi,
nghĩa vụ như mọi công dân khác.
ĐỊNH NGHĨA LIỆT SĨ
Liệt sĩ là những
người không phân biệt giai cấp, tôn giáo và xu hướng chính trị, vì phấn đấu cho
sự nghiệp cách mạng của dân tộc chống đế quốc, chống phong kiến mà hy sinh một
cách vẻ vang.
Liệt sĩ nói trong điều lệ này
là:
1) Những cán bộ,
nhân viên cách mạng vì đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến (kể cả các cán
bộ phát động quần chúng giảm tô và cải cách ruộng đất);
- Bị địch giết chết
- Bị địch bắt,
tra tấn, không khai báo, không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh, sau bị ốm
chết.
- Bị khủng bố chết trong các cuộc
đấu tranh trong các nhà lao của địch.
2) Những quân nhân cách mạng thuộc
các tổ chức Quân đội nhân dân Việt nam và các tổ chức vũ trang khác như: Đội Việt
nam Tuyên truyền Giải phóng quân, Cứu quốc, quân (tức quân du kích hoạt động
trong thời kỳ đại chiến thứ hai ở Bắc sơn, Đình cả, Tràng xã, La hiên, Đại tứ,
Định hóa, Sơ dương, Ba tơ v .v… ) những cán bộ, chiến sĩ thuộc các đơn vị cảnh
vệ, bảo vệ, công an vũ trang:
- Bị hy sinh trong khi chiến đấu
- Bị địch bắt,
tra tấn không khai báo, không chịu khuất phục, kiên quyết đấu tranh mà bị địch
giết hay ốm chết.
- Bị khủng bố chết trong các cuộc
đấu tranh trong nhà lao của địch
3) Các quân
nhân, chiến sĩ, cán bộ, nhân viên cách mạng kể trên và các công dân, vì dũng cảm
vượt khó khăn, nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm vụ, hoặc vì cứu người, cứu tài sản
của nhân dân, của quốc gia mà bị hy sinh, được Ủy ban Hành chính tỉnh hay cấp
trung đoàn trở lên đề nghị.
4) Những tự vệ chiến đấu, những
“đội danh dự” của Việt minh trước ngày Tổng khởi nghĩa, những tự vệ chiến đấu ở
thành phố những dân quân du kích.
- Bị hy sinh trong khi chiến đấu
- Bị hy sinh trong khi diệt tề, trừ
gian, chống phản động, trinh sát địch tình, đưa đường cho bộ đội đánh địch v
.v…
- Vì dũng cảm bảo vệ phát động
quần chúng bị địa chủ, phản động sát hại
- Vì dũng cảm vượt khó khăn,
nguy hiểm kiên quyết làm nhiệm vụ khi phục vụ tiền tuyến: tải thương, tải đạn,
bảo vệ cán bộ, bảo vệ kho tàng, bảo vệ cầu đường, chuẩn bị chiến trường, giao
thông liên lạc v .v… mà bị hy sinh, được nhân dân nhận xét là xứng đáng, Ủy ban
Hành chính tỉnh đề nghị.
5) Những công nhân quốc phòng vì
thử, chữa hay sản xuất vũ khí, vì chiến đấu bảo vệ nhà máy trong thời gian
kháng chiến mà bị hy sinh, vì dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết làm
nhiệm vụ khi phục vụ tiền tuyến, mà bị hy sinh, được đồng nghiệp trong xí nghiệp
hoặc nhân dân nhận xét là xứng đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh hay Bộ Tư lệnh Quân
khu đề nghị.
6) Những thanh niên xung phong,
đội viên đội chủ lực cầu đường, vì dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết
làm nhiệm vụ trong khi phục vụ tiền tuyến trong thời gian kháng chiến, những
dân công luôn luôn tỏ ra dũng cảm vượt khó khăn nguy hiểm, kiên quyết làm nhiệm
vụ trong khi phục vụ tiền tuyến, mà bị hy sinh, được nhân dân nhận xét là xứng
đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị.
7) Những
thương binh, dân quân du kích, cảnh vệ, cán bộ, nhân viên, thanh niên xung phong,
công an vũ trang bị thương trong những trường hợp đã nói trên đây và thành
thương tật, vẫn giữ được phẩm chất cách mạng, sau vì vết thương cũ tái phát mà
chết, được đồng đội trong đơn vị, đồng sự trong cơ quan hay nhân dân nhận xét
là xứng đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị.
8) Những công dân vì kiên quyết
bảo vệ cán bộ hay cơ sở cách mạng, trong khi đấu tranh chống đế quốc, chống
phong kiến mà bị địch sát hại, bị địch tra tấn chết mà không khai báo.
Những cốt cán trong phát động quần
chúng đã kiên quyết đấu tranh với địa chủ, phản động mà bị chúng sát hại, được
nhân dân nhận xét là xứng đáng, Ủy ban Hành chính tỉnh đề nghị.
Trên đây là
trường hợp những người hy sinh một cách vẻ vang xứng đáng là liệt sĩ.
Đối với trường hợp những người
đã mất, trọn đời phục vụ cách mạng, có công lớn thì Chính phủ còn đang
nghiên cứu và sẽ quy định sau.
ĐIỀU LỆ
VỀ ƯU ĐÃI GIA ĐÌNH QUÂN NHÂN
Điều 1. – Quân
nhân mà gia đình được hưởng các khoản ưu đãi của điều lệ này là các cán bộ và
chiến sĩ tại ngũ thuộc các tổ chức của quân đội nhân dân Việt nam và các bộ đội
cảnh vệ, bộ đội bảo vệ.
Điều 2. – Gia
đình quân nhân gồm những thân nhân của quân nhân xếp thứ tự trước sau như dưới
đây:
- Vợ hay chồng
- Con
- Cha mẹ đẻ
- Em dưới 16 tuổi, nếu không còn
cha mẹ
Nếu không có những người này thì
người nào đã thực sự nuôi nấng quân nhân từ bé đến lớn, hoặc người mà quân nhân
có nhiệm vụ nuôi nấng, do nhân dân xã hoặc khu phố công nhận, được coi là gia
đình quân nhân.
Điều 3. – Gia
đình quân nhân từ khi thành lập quân đội tới ngày ban hành điều này, được tăng
thưởng bảng “Gia đình vẻ vang” hoặc là “Bảng vàng danh dự”
Điều 4. – Gia
đình quân nhân tại ngũ được nhân dân và chính quyền giúp đỡ trong việc sinh sống
làm ăn, tùy theo điều kiện cho phép.
Điều 5. – Gia
đình quân nhân tại ngũ thiếu ruộng cày được ưu đãi trong việc chia cấp ruộng đất,
theo như Luật cải cách ruộng đất đã quy định.
Điều 6. – Gia
đình quân nhân tại ngũ được tính mỗi quân nhân tại ngũ là một nhân khẩu trong
thuế nông nghiệp.
Điều 7. – Gia
đình quân nhân tại ngũ được chiếu cố trong việc tuyển dụng vào cơ quan, xí nghiệp,
trong việc tuyển lựa học sinh vào các trường.
Điều 8. – Trong
việc Chính phủ cứu tế hay cho nhân dân vay, gia đình quân nhân được chiếu cố.
Điều 9. – Gia
đình quân nhân tại ngũ từ trần được cấp một lần một khoản tiền tuất do Bộ
Thương binh ấn định thỏa thuận với Bộ Quốc phòng và Bộ Tài chính.