BỘ
GIAO THÔNG VẬN TẢI
******
Số:
10-TT
|
VIỆT
NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
*******
Hà
Nội, ngày 20 tháng 06 năm 1964
|
THÔNG TƯ
QUY ĐỊNH CHI TIẾT VÀ HƯỚNG DẪN THI HÀNH ĐIỀU LỆ VẬN CHUYỂN
HÀNG HÓA BẰNG PHƯƠNG TIỆN VẬN TẢI CƠ GIỚI, THÔ SƠ ĐƯỜNG SÔNG VÀ PHƯƠNG TIỆN VẬN
TẢI THÔ SƠ ĐƯỜNG BIỂN (BAN HÀNH DO NGHỊ ĐỊNH SỐ 44-CP NGÀY 03-03-1964 CỦA HỘI ĐỒNG
CHÍNH PHỦ)
Miền Bắc nước ta có nhiều sông trong hầu khắp các tỉnh đồng bằng và miền
núi, có vùng biển dài nối liền nhiều tỉnh, rất thuận lợi cho việc lưu thông
hàng hóa bằng đường thủy để phục vụ cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân.
Hiện nay
phương tiện vận tải cơ giới, thô sơ đường sông và phương tiện thô sơ đường biển
của ta hàng năm đang vận chuyển một khối lượng hàng hóa khá lớn để phục vụ cho
kế hoạch Nhà nước và yêu cầu vận chuyển hàng hóa của nhân dân.
Trong sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nước, các ngành kinh tế quốc dân của nước ta đang phát triển
để đưa miền Bắc nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xa
hội.
Các ngành
kinh tế quốc dân càng phát triển thì chỉ tiêu kế hoạch vận chuyển hàng hóa của
Nhà nước , yêu cầu vận chuyển hàng hóa của nhân dân càng lớn, phạm vi quan hệ
giữa ngành vận tải với các chủ hàng càng thêm rộng rãi.
Để mọi thủ tục,
nguyên tắc giao dịch, quan hệ giữa chủ hàng và bên vận tải được thống nhất và
đi vào nề nếp, phân rõ trách nhiệm của mỗi bên trong việc thực hiện kế hoạch của
Nhà nước, bảo vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân ngày 03-03-1964 Hội đồng
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44-CP kèm theo điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng
phương tiện vận tải cơ giới, thô sơ đường sông và phương tiện vận tải thô sơ đường
biển.
Điều 45 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
"Ông Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải có trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành bản điều lệ này"
Căn cứ vào
nghị định và điều 45 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ, Bộ Giao thông vận tải
ban hành thông tư này để giải thích điều lệ, đồng thời quy định các chi tiết cần
thiết để hướng dẫn việc thi hành điều lệ của Hội đồng Chính phủ.
MỤC
ĐÍCH CỦA ĐIỀU LỆ
Bản điều lệ của
Hội đồng Chính phủ đặt ra những quy tắc vận tải, tức là quy định các nguyên tắc
bắt buộc bên chủ hàng và bên vận tải phải nghiêm chỉnh chấp hành để cho công
tác quản lý vận tải và vận chuyển hàng hóa ngày được củng cố và tăng cường, có
thủ tục pháp lý thống nhất, tiến dần vào nề nếp chính quy, tránh được những lề
lối làm việc tùy tiện.
Những quy định
trong điều lệ còn để đưa công tác vận chuyển hàng hóa đi dần vào kế hoạch, có
nghĩa là để việc sử dụng phương tiện vận tải được hợp lý và tiết kiệm nhất,
tránh được những lãng phí không cần thiết.
Như vậy có
nghĩa là Chính phủ ban hành điều lệ vận chuyển hàng hóa bằng phương tiện vận tải
cơ giới thô sơ đường s6ng và phương tiện vận tải thô sơ đường biển là nhằm mục
đích để nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ hàng và bên vận tải, yêu cầu
các chủ hàng và bên vận tải phải phát huy tinh thần làm chủ, tinh thần hợp tác
xã hội chủ nghĩa để bảo đảm hoàn thành và hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu vận
chuyển hàng hóa của Nhà nước và yêu cầu vận chuyển hàng hóa của nhân dân.
Chỉ tiêu vận
chuyển hàng hóa của Nhà nước, yêu cầu vận chuyển hàng hóa của nhân dân và chỉ
tiêu kế hoạch vận tải của Nhà nước đều nhằm phục vụ chung cho một mục đích:
phát triển kinh tế quốc dân, đưa miền Bắc nước ta tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững
chắc lên chủ nghĩa xã hội.
Kế hoạch vận
tải, kế hoạch lưu thông hàng hóa có liên hệ khăng khít với nhau. Kế hoạch vận tải
chỉ tốt khi kế hoạch lưu thông hàng hóa tốt. Kế hoạch lưu thông hàng hóa chỉ được
bảo đảm khi kế hoạch vận tải được bảo đảm. Bởi vậy nếu kế hoạch của một bên nào
bị vỡ thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến kế hoạch của bên kia và sẽ ảnh hưởng lớn đến
kế hoạch chung của Nhà nước. Do đó mà bên vận tải và bên chủ hàng đều phải hết
sức quan tâm đến kế hoạch của nhau, phải lấy chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước bao
gồm chỉ tiêu vận tải, chỉ tiêu lưu thông hàng hóa, sự nghiệp phát triển kinh tế
quốc dân làm cơ sở trách nhiệm chung của hai bên mà cùng nhau cộng tác với tinh
thần hợp tác xã hội chủ nghĩa mà đôn đốc lẫn nhau giúp đỡ lẫn nhau, khắc phục mọi
hoàn cảnh khó khăn, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật của Nhà nước để đảm bảo
cho nhau hoàn thành tốt trước Nhà nước, trước nhân dân.
Tuyệt đối
không bên nào được ỷ vào các quy định trong điều lệ của Chính phủ để gây khó
khăn trở ngại cho nhau, làm lỡ kế hoạch của nhau.
Nếu bên nào
không đề cao tinh thần hợp tác xã hội chủ nghĩa để giúp đỡ lẫn nhau giải quyết
những trường hợp khó khăn, hoặc có hành động cục bộ, bản vị, đều coi là không
chấp hành nghiêm chỉnh điều lệ của Chính phủ.
Các hợp tác
xã hay tư nhân và các tổ chức vận tải chủ lưc của các cơ quan, xí nghiệp, kể cả
của quân đội không làm vận tải chuyên nghiệp, khi đã nhận vận chuyển hàng hóa
thuê cho các chủ hàng do các cơ quan giao thông vận tải phân bổ kế hoạch, cũng
có nhiệm vụ phải nghiêm chỉnh chấp hành điều lệ của Chính phủ và phải đề cao
tinh thần trách nhiệm trước kế hoạch Nhà nước và yêu cầu vận chuyển của nhân dân.
Để bảo đảm
cho chỉ tiêu kế hoạch vận chuyển hàng hóa của Nhà nước được thực hiện tốt và
yêu cầu cần thiết của địa phương, điều lệ của Chính phủ đã giao cho các Ủy ban
hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có quyền ra lệnh cho
các đơn vị vận tải trong những trường hợp cần vận chuyển những hàng hóa đột xuất.
Đồng thời Chính phủ cũng giao quyền hạn, nhiệm vụ cho các Ủy ban hành chính các
địa phưong giải quyết những trường hợp mà hàng hóa phải dỡ xuống dọc đường để bảo
vệ tài sản của Nhà nước và nhân dân.
Điều lệ của Hội
đồng Chính phủ cũng giao nhiệm vụ cho các Sở, Ty Giao thông vận tải có nhiệm vụ
dàn xếp các vụ tranh chấp giữa chủ hàng và bên vận tải để củng cố thêm ý thức hợp
tác xã hội chủ nghĩa, nâng cao thêm tinh thần trách nhiệm của chủ hàng và bên vận
tải đối với việc chấp hành điều lệ của Chính phủ, đồng thời để giúp đỡ cho chủ
hàng và bên vận tải những điều kiện thuận lợi hơn, nhằm bảo đảm cho chỉ tiêu vận
chuyển hàng hóa của Nhà nước và yêu cầu vận chuyển hàng hóa của nhân dân được
thực hiện tốt.
NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Phạm vi
áp dụng điều lệ:
Điều 1 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
"Bản
điều lệ này áp dụng cho việc vận chuyển hàng hóa có mục đích kinh doanh vận tải
chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp bằng những phương tiện vận tải cơ giới, thô
sơ đường sông và phương tiện vận tải thô sơ đường biển, kể cả những phương tiện
chủ lực của các cơ quan, xí nghiệp, quân đội được điều động để chở hàng thuê
cho các cơ quan, xí nghiệp khác".
Theo quy định
này thì bất kỳ phương tiện vận tải cơ giới, thô sơ đường sông, phương tiện vận
tải thô sơ đường biển, thuộc bất kỳ xí nghiệp, cơ quan nào, kể cả những phương
tiện vận tải thuộc quân đội, nếu do cơ quan giao thông vận tải điều động hoặc
phân bổ kế hoạch vận chuyển để chở thuê cho một cơ quan, xí nghiệp khác, có thu
cước phí vận tải, là đều thuộc phạm vi áp dụng của điều lệ của Hội đồng Chính
phủ.
Những trường
hợp vận chuyển không do cơ quan giao thông vận tải phân bổ kế hoạch điều động
phương tiện vận tải thì không thuộc phạm vi áp dụng điều lệ của Hội đồng Chính
phủ. Thí dụ: phương tiện vận tải của một đơn vị trong một ngành, theo lệnh của
cấp trên trong ngành, vận chuyển hàng hóa cho một đơn vị khác cũng trong một
ngành.
Điều 1 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ còn quy định:
"Đối
với việc vận chuyển đường ngắn, bằng phương tiện vận tải thô sơ nhỏ (trọng tải
dưới 5 tấn), trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Ủy ban
hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, căn cứ điều lệ này mà quy
định chi tiết và châm chước một số điểm cụ thể cho phù hợp với tình hình địa
phương".
Theo quy định
này thì các Ủy ban hành chính các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương được
quyền quy định chi tiết và châm chước một số điểm cụ thể về vận tải hàng
hóa đối với các loại phương tiện vận tải thô sơ nhỏ dưới 5 tấn, hoạt động trong
phạm vi thuộc địa phương mình quản lý. Bất luận phương tiện thô sơ dưới 5 tấn của
địa phương khác nào, nếu hoạt động trong địa phương có quy định của Ủy ban hành
chính sở tại, cũng đều phải chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Ủy ban hành
chính địa phương sở tại.
Các Ủy ban
hành chính tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương muốn quy dịnh chi tiết và châm
chước một số điểm cho địa phương mình nhất thiết phải căn cứ vào điều lệ của
Hội đồng Chính phủ Căn cứ vào điều lệ của Hội đồng Chính phủ có nghĩa là
các quy định cụ thể, chi tiết của địa phương phải bảo đảm các nguyên tắc cơ bản
và tinh thần điều lệ của Hội đồng Chính phủ.
Thí dụ 1:
Tinh thần và mục đích của điều lệ là để xây dựng, củng cố và tăng cường công
tác quản lý vận chuyển hàng hóa, thực hiện phương châm vận chuyển nhanh, nhiều,
tốt, rẻ và an toàn, đưa việc vận chuyển đi dần vào kế hoạch, nhằm bảo đảm hoàn
thành và hoàn thành vượt mức chỉ tiêu vận chuyển của Nhà nước và yêu cầu vận
chuyển hàng hóa của nhân dân. Như vậy là các quy định chi tiết, cụ thể, những
điểm châm chước của địa phương phải bảo đảm cho được những nguyên tắc vận chuyển,
phải nhanh, nhiều, tốt, rẻ và an toàn, sử dụng phương tiện vận tải hợp lý, tiết
kiệm, không làm lỡ kế hoạch của chủ hàng và bên vận tải.
Thí dụ 2 về
châm chước một số điểm cụ thể: tùy theo tình hình và thực tế của địa
phương, địa phương có thể thêm hoặc bớt một số điểm về thủ tục để vừa đơn giản
vừa bảo đảm được nguyên tắc pháp lý trong quan hệ giao dịch, phân định trách
nhiệm giữa chủ hàng và bên vận tải để khi có tranh chấp thì có cơ sở phân định
trách nhiệm của mỗi bên. Hoặc do hoàn cảnh và điều kiện của tổ chức hay cá nhân
làm công tác vận tải, địa phương có thể quy định việc mua sắm vật liệu chứa
lót, việc xếp dỡ hàng hóa do chủ hàng phải đảm nhiệm v.v..
Nếu địa
phương nào chưa có hoặc không có quy định riêng thì áp dụng điều lệ của Hội đồng
Chính phủ
2. Các
nguyên tắc thuê chở, nhận chở.
Các hình thức
thuê vận chuyển: Theo điều 2 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ thì chủ hàng
có thể thuê bên vận tải vận chuyển hàng hóa bằng một trong những hình thức như
sau:
a) Thuê vận
chuyển cả một khối hàng nhất định, trong một thời gian dài hoặc ngắn, bằng nhiều
chuyến. Trường hợp này coi như bên chủ hàng thuê bên vận tải chở khoán một khối
lượng hàng hóa trong một thời gian nhất định. Bên vận tải căn cứ vào yêu cầu của
chủ hàng và tính chất hàng hóa, bố trí phương tiện vận tải để bảo đảm vận chuyển
hết hàng hóa trong thời hạn vận chuyển hai bên đã thỏa thuận.
b) Thuê cả
chuyến nghĩa là bên chủ hàng thuê nguyên cả một chiếc tầu (có thể có một hay
nhiều sà-lan), nguyên cả thuyền hoặc nhiều thuyền để vận chuyển một chuyến
hàng.
c) Thuê
nguyên một hầm tầu hay hầm sà-lan.
Hai trường hợp
thuê nguyên chuyến và thuê nguyên hầm, chủ hàng có toàn quyền sử dụng tất cả
dung tích, trọng tải của tầu và của hầm. Nhưng nếu bên chủ hàng không sử dụng hết
dung tích hoặc trọng tải của phương tiện vận tải bên vận tải được quyền xếp
thêm hàng hóa của chủ hàng khác lên phương tiện để tận dụng khả năng của phương
tiện, miễn là những hàng hóa bên vận tải xếp thêm không gây hư hại gì cho hàng
hóa của chủ hàng thuê nguyên chuyến hoặc nguyên hầm, và chủ hàng thuê nguyên
chuyến hoặc nguyên hầm vẫn phải trả cho bên vận tải toàn bộ cước phí cho cả
chuyến hoặc cả hầm.
Đối với hình
thức thuê nguyên hầm, bên vận tải căn cứ vào tính chất hàng hóa, vào trọng lượng
hàng hóa mà bố trí phương tiện vận tải cho thích hợp để bảo đảm vận chuyển hết,
đúng thời hạn và an toàn hàng hóa.
d) Thuê chở
hàng lẻ: khoản d điều 6 quy định "Chủ hàng có khối lượng hàng
hóa dưới 5 tấn thuê vận chuyển trong một chuyến coi như hàng lẻ". 5 tấn
quy định trong điều lệ là đối với các phương tiện vận tải thô sơ, còn đối với
các tầu, sà-lan thì dưới 50 tấn mới được coi là hàng lẻ.
3. Đại diện
của bên chủ hàng và bên vận tải.
Điều 3 trong
điều lệ quy định:
"a)
Bên chủ hàng có thể cử người đại diện để giao nhận hàng hóa với bên vận tải
nhưng phải có giấy hợp lệ.
b) Người
phụ trách phương tiện vận tải là đại diện của bên vận tải... trong quá trình vận
chuyển.
c) Bên vận
tải cũng như bên chủ hàng đều phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi hành động
của người đại diện của mình".
Theo quy định
này của Hội đồng Chính phủ thì bên vận tải cũng như bên chủ hàng đều có thể cử
đại diện cho đơn vị mình để giao dịch với nhau về công việc vận chuyển hàng hóa
cũng như trong việc thực hiện hợp đồng mà hai bên đã ký kết. Đối với bên vận tải
trường hợp phương tiện vận tải đang trên đường đi, cần quan hệ với chủ hàng và
các cơ quan chính quyền địa phương thì người phụ trách phương tiện vận tải
đương nhiên là đại diện của đơn vị vận tải.
Người đại diện
cho chủ hàng hay bên vận tải phải là người có chức vụ tương xứng, có đủ tư cách
đại diện cho thủ trưởng đơn vị. Trong giấy ủy nhiệm phải ghi rõ họ, tên, chức vụ
của người được ủy quyền, phải có chữ ký của thủ trưởng đơn vị và có dấu của cơ
quan.
Những cán bộ
không có chức vụ tương xứng, đủ tư cách đại diện cho thủ trưởng đơn vị nhất thiết
không được cử làm đại diện. Nhưng hai bên chủ hàng và vận tải vẫn có thể giới
thiệu những cán bộ này qua lại giao dịch để chuẩn bị cho việc giao dịch chính
thức giữa hai thủ trưởng hai đơn vị hoặc giữa hai đại diện của hai thủ trưởng
đơn vị được ủy quyền.
LẬP KẾ HOẠCH VẬN CHUYỂN VÀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG VẬN TẢI
1. Lập kế
hoạch vận chuyển hàng hóa
Điểm a
trong điều 4 điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
"...
Trường hợp không có khối lượng hàng hóa lớn phải vận chuyển, không có thường
xuyên hoặc có ít hàng thì không phải lập kế hoạch vận tải nhưng phải có giấy
báo cho bên vận tải biết trước 10 ngày".
Để thi hành
quy định này của điều lệ, Bộ quy định cụ thể như sau:
Khối lượng
hàng hóa không lớn hoặc có ít hàng, không có thường xuyên là:
a) Đối với
tàu thủy: là những khối lượng hàng không nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước,
chỉ tiêu kế hoạch của Bộ, chỉ tiêu kế hoạch của Ủy ban hành chính khu, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, không yêu cầu vận chuyển thường xuyên trong
các quý hoặc trong một hay hai quý trong một năm mà chỉ yêu cầu vận chuyển một
hoặc hai lần trong một năm và khối lượng hàng vận chuyển chỉ có từ 200 tấn trở
xuống.
b) Đối với
thuyền: là những khối lượng hàng không nằm trong chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước,
chỉ tiêu kế hoạch của Bộ, chỉ tiêu kế hoạch của Ủy ban hành chính khu, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, không yêu cầu vận chuyển thường xuyên trong
các quý, hoặc trong một tay hai quý trong một năm, mà chỉ thỉnh thoảng, hai hoặc
ba tháng mới yêu cầu vận chuyển một lần mà tổng cộng khối lượng hàng cả năm
không được quá 50 tấn.
Đối với những
hàng nguyên kiện nặng trên 10 tấn, chủ hàng phải bàn bạc trước với bên vận tải
ngay từ khi ký hợp đồng.
2. Vận
chuyển hàng hóa ngoài kế hoạch.
Điều 5 trong điều
lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
a) Bên vận
tải chỉ nhận vận chuyển những trường hợp ngoài kế hoạch khi có lệnh của Thủ tướng
Chính phủ, của Bộ trưởngBộ Giao thông vận tải hay của Ủy ban hành chính các
khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương trong trường hợp để cứu đói, cứu mùa
màng, chống bão lụt, chống dịch, chống hạn hoặc phục vụ nhiệm vụ an ninh và quốc
phòng. Nếu vì thi hành lệnh của cấp trên mà phải tạm hoãn việc thực hiện các hợp
đồng vận tải khác thì bên vận tải phải báo cho chủ hàng biết, đồng thời phải
báo cáo lên Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải và Hội đồng Trọng tài cùng cấp (nếu
bên vận tải là hợp tác xã hay tư nhân thì chỉ báo cho chủ hàng). Những hàng hóa
bị hoãn phải được tiếp tục vận chuyển ngay sau khi bên vận tải đã thực hiện xong
việc vận chuyển hàng hóa ngoài kế hoạch nói ở trên.
b) Ngoài
những trường hợp kể trên, bên vận tải chỉ nhận chở hàng hóa ngoài kế hoạch nếu
có khả năng hoặc khi có lệnh của Thủ tướng Chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải hay của Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương nhưng chủ hàng phải trả thêm cho bên vận tải một khoản tiền bằng 2%
tiền cước nếu vận chuyển bằng phương tiện cơ giới. Nếu vì không có khả năng mà
phải thi hành lệnh của cấp trên và tạm đình vận chuyển một số hàng mà bên vận tải
đã ký hợp đồng vận tải thì ngoài việc phải trả thêm 2% tiền cước, chủ hàng còn
phải chịu thêm các phí tổn mà bên vận tải phải bồi thưòng vì không thực hiện được
hợp đồng đã ký kết với chủ hàng khác (nếu có).
Hàng hóa yêu
cầu vận chuyển ngoài kế hoạch quy định trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ tức
là hàng hóa yêu cầu vận chuyển đột xuất.
Để có nhận thức
đúng đắn và thống nhất, Bộ giải thích thế nào là vận chuyển đột xuất.
Căn cứ theo
thể lệ hiện hành của Chính phủ, hàng năm, hàng quý, hàng tháng, bên chủ hàng phải
gửi kế hoạch vận chuyển hàng hóa cho bên vận tải và hai bên phải cùng nhau ký hợp
đồng vận tải theo đúng chế độ hợp đồng kinh tế đã được Chính phủ quy định. Do
đó, nếu bên chủ hàng không chấp hành đúng thể lệ mà yêu cầu bên vận tải vận
chuyển thì coi là vận chuyển đột xuất. Tuy nhiên, tinh thần của điều 5 trên đây
là nhằm mục đích bảo đảm vận chuyển những trường hợp cần thiết. Trong thực tế
hiện nay, việc lập kế hoạch vận tải và việc ký kết hợp đồng vận tải vẫn còn có
những trường hợp cần được châm chước, cho nên áp dụng điều 5 trên đây vào thực
tế, cần phải linh hoạt và thích ứng với hoàn cảnh. Vậy tạm thời Bộ xác định những
hàng hóa thuê vận chuyển đột xuất chỉ là những hàng hóa thuê vận chuyển trong
những trường hợp sau đây:
- Hàng không
nằm trong chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước và không có hợp đồng vận tải mà bên chủ
hàng xin vận chuyển.
- Hàng hóa đã
có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước nhưng bên chủ hàng không chấp hành đúng chế độ
ký kết hợp đồng vận tải mà xin vận chuyển, làm xáo trộn kế hoạch của bên vận tải.
Còn những trường
hợp sau đây thì không coi là hàng hóa vận chuyển đột xuất:
- Hàng hóa đã
có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, không có hoặc chưa có hợp đồng nguyên tắc
nhưng có hợp đồng vận tải cụ thể;
- Hàng hóa
không có chỉ tiêu kế hoạch của Nhà nước, không có hợp đồng nguyên tắc nhưng hai
bên chủ hàng và bên vận tải đã cùng nhau thỏa thuận ký hợp đồng vận tải cụ thể;
- Hàng hóa mà
bên chủ hàng đã chính thức gửi kế hoạch dự trù lên cấp trên và đã gửi kế hoạch
cho bên vận tải nhưng Nhà nước chưa duyệt và cấp trên chưa ký hợp đồng vận tải
nguyên tắc hoặc chưa phân bổ kế hoạch mà hai bên đã có ký hợp đồng cụ thể;
- Hàng hóa
thuê vận chuyển hàng năm với khối lượng không lớn như đã quy định và giải thích
ở phần trên của thông tư này.
Theo quy định
của điều 5 trong điều lệ thì có hai trường hợp đột xuất:
a) Đột xuất
có tính chất khẩn cấp: là những trường hợp theo lệnh của Thủ tướng Chính phủ,
của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hay của Ủy ban hành chính các khu, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương phải khẩn cấp vận chuyển những hàng hóa để cứu
đói, cứu mùa màng, chống bão lụt, chống dịch, chống hạn hoặc phục vụ an ninh và
quốc phòng.
b) Đột xuất
nhưng không có tính chất khẩn cấp: là những trường hợp yêu cầu vận chuyển
do chủ hàng trực tiếp thương lượng với bên vận tải hoặc có lệnh của Thủ tướng
Chính phủ, của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải hay của Ủy ban hành chính các
khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương để chở những hàng hóa không phải là
những trường hợp có tính chất khẩn cấp như đã quy định ở phần a trên đây.
Hàng hóa vận
chuyển đột xuất trong những trường hợp khẩn cấp không phải trả thêm 2% giá cước
vận chuyển.
Hàng hóa vận
chuyển đột xuất trong những trường hợp khác thì phải trả thêm 2% giá cước như
đã quy định ở khoản b điều 5 của điều lệ.
Để bảo đảm điều
5 trên đây thi hành đúng với tinh thần của điều lệ, Bộ giải thích và quy định
thêm một số điểm cụ thể như sau:
- Đối với việc
vận chuyển đột xuất trong phạm vi toàn quốc (trường hợp khẩn cấp cũng như trường
hợp không khẩn cấp), lệnh đột xuất do Thủ tướng Chính phủ và Bộ trưởng Bộ Giao
thông vận tải ban hành. Lệnh của Thủ tướng Chính phủ do Bộ trưởng Bộ Giao thông
vận tải và các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương thi
hành. Lệnh của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải để huy động phương tiện vận tải
thuộc quyền quản lý của địa phương do các Ủy ban hành chính khu, tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương thi hành và do ông Cục trưởng Cục Vận tải đường thủy thi
hành nếu những phương tiện vận tải huy động thuộc quyền quản lý của Bộ Giao
thông vận tải (Cục Vận tải đường thủy).
- Đối với việc
vận chuyển khẩn cấp trong phạm vi một địa phương Ủy ban hành chính các khu, tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương ra lệnh cho các đơn vị vận tải thuộc quyền quản
lý của địa phương mình thi hành. Nếu phương tiện vận tải thuộc quyền quản lý của
địa phương không đủ để phục vụ thì các Ủy ban hành chính có quyền ra lệnh cho
phương tiện vận tải của các đơn vị, xí nghiệp vận tải trực thuộc Bộ Giao thông
vận tải đóng tại địa phương mình hoặc phương tiện vận tải của các địa phương
khác, của các Bộ, các cơ quan trung ương đang hoạt động tại địa phương hoặc
đang đi ngang qua địa phương mình nhưng phải báo cáo cho Bộ Giao thông vận tải
(Cục Vận tải đường thủy), cho Ủy ban hành chính các địa phương khác, các Bộ,
các cơ quan trung ương có phương tiện vận tải phải thi hành lệnh khẩn cấp biết
bằng điện.
Lệnh vận chuyển
đột xuất khẩn cấp phải do Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Ủy ban hành chính ký.
Trong những
trường hợp vận chuyển đột xuất khẩn cấp, bên vận tải được miễn trách nhiệm đối
với các chủ hàng khác nếu vì thi hành lệnh mà không hoàn thành hợp đồng đúng thời
hạn hoặc gây ra các tổn thất khác mà không do lỗi của bên vận tải. Nếu phải dỡ
hàng xuống để tập trung phương tiện vận tải đã hoàn thành kế hoạch khẩn cấp thì
Ủy ban hành chính ra lệnh huy động có nhiệm vụ lo liệu việc dỡ hàng, bảo quản
hàng hóa và sau khi phương tiện vận tải đã hoàn thành kế hoạch khẩn cấp thì Ủy
ban hành chính ra lệnh phải tổ chức xếp lại hàng lên phương tiện vận tải, kể cả
việc huy động phương tiện vận tải theo lệnh của Thủ tướng Chính phủ và của Bộ
trưởng Bộ Giao thông vận tải. Cước phí và phụ phí vận tải cũng như các phí tổn
về các công việc nói trên do cơ quan có hàng vận chuyển đột xuất hoặc cơ quan
ra lệnh thanh toán.
Trong những
trường hợp vận chuyển đột xuất khác trong phạm vi địa phương mà không có tính
chất khẩn cấp thì Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương chỉ ra lệnh huy động phương tiện vận tải của các xí nghiệp và đơn vị vận tải
thuộc quyền quản lý của địa phương. Nếu cần huy động phương tiện vận tải của
các xí nghiệp vận tải trực thuộc trung ương đóng tại địa phương mình thì phải
thương lượng với Bộ Giao thông vận tải (Cục Vận tải đường thủy). Không được huy
động phương tiện vận tải của các địa phương khác đang hoạt động trong địa
phương mình hoặc đang đi ngang qua địa phương mình. Lệnh này phải do Chủ tịch,
Phỏ chủ tịch hoặc Ủy viên thường trực Ủy ban hành chính ký. Cước phí và phụ phí
vận tải do cơ quan có hàng vận chuyển đột xuất thanh toán.
Đây là một vấn
đề rất quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến kế hoạch vận tải và kế hoạch lưu thông
hàng hóa chung. Bộ đề nghị các Ủy ban hành chính các khu, tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương khi ra lệnh cần cân nhắc kỹ, đặc biệt là đối với những trường
hợp đột xuất không khẩn cấp, để tạo điều kiện cho công tác vận tải đi vào kế hoạch
hay hạn chế hết sức những ảnh hưởng không lợi đến việc thực hiện kế hoạch vận
chuyển chung và gây khó khăn cho bên vận tải.
Các chủ hàng
cần đề cao tinh thần trách nhiệm đối với nhiệm vụ lập kế hoạch vận tải, nhiệm vụ
chấp hành chế độ hợp đồng kinh tế mà hết sức tránh những trường hợp yêu cầu bên
vận tải vận chuyển đột xuất gây xáo trộn kế hoạch của bên vận tải.
3. Hợp đồng
vận tải
Điểm b và c
trong điều 6 điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
b) Nếu một
trong hai bên là hợp tác xã hay tư nhân cũng phải ký hợp đồng vận tải. Nội dung
hợp đồng do hai bên thỏa thuận.
c) Những hợp
tác xã vận tải được cơ quan giao thông vận tải giao kế hoạch vận chuyển phải có
trách nhiệm ký hợp đồng vận tải với chủ hàng. Hợp đồng đã ký phải gửi ngay cho
cơ quan giao thông vận tải đã giao kế hoạch vận chuyển.
Theo quy định
này thì các hợp tác xã vận tải khi đã có kế hoạch vận chuyển do các cơ quan
giao thông vận tải phân bổ thì đều có nhiệm vụ phải ký hợp đồng với chủ hàng.
Điều quan trọng
cần chú ý ở đây là nội dung hợp đồng phải do hai bên thỏa thuận. Quy định này của
Chính phủ là để bảo đảm nguyên tắc dân chủ và bình đẳng trong việc ký kết hợp đồng
giữa các chủ hàng với các hợp tác xã vận tải, đồng thời là để chiếu cố đến hoàn
cảnh thực tế của các hợp tác xã vận tải hiện nay chưa có các điều kiện tổ chức
như các quốc doanh và công tư hợp doanh vận tải đã hạch toán kinh tế. Mặt khác,
quy định này của Chính phủ còn nhằm tập dượt cho các hợp tác xã vận tải một lề
lối làm việc có tổ chức, có nguyên tắc để dần dần nâng cao trình độ quản lý của
các hợp tác xã vận tải. Cho nên các hợp tác xã vận tải phải thấy rằng việc ký kết
các hợp đồng vận tải là một nghĩa vụ để đóng góp phần vinh dự vào công cuộc xây
dựng kinh tế xã hội chủ nghĩa của đất nước, đồng thời cũng là một quyền lợi mà
Chính phủ đã thực sự chăm lo đến các hợp tác xã, nhằm bảo đảm quyền dân chủ thực
sự của các hợp tác xã, do đó mà tích cực hoàn thành các kế hoạch đã được các cơ
quan giao thông vận tải phân bổ.
Theo quy định
của Chính phủ thì các chủ hàng, khi có kế hoạch vận chuyển hàng hóa là nhất thiết
đều phải gửi qua các cơ quan giao thông vận tải. Chính phủ quy định như vậy để
giao trách nhiệm cho các cơ quan giao thông vận tải phải có trách nhiệm phân phối
kế hoạch vận tải để bảo đảm các chỉ tiêu vận tải hàng hóa của Nhà nước và yêu cầu
vận chuyển của nhân dân, đồng thời cũng là để tập trung quyền phân phối các loại
phương tiện vận tải vào các cơ quan giao thông vận tải để các cơ quan giao
thông vận tải sử dụng, phân phối các phương tiện vận tải sử dụng, phân phối các
trực thuộc vận tải được hợp lý, kịp thời và cân đối. Tuy vậy, để thuận tiện cho
các chủ hàng đối với những trường hợp đặc biệt, Bộ hướng dẫn thêm là các chủ
hàng có thể trực tiếp thương lượng ngay với một đơn vị vận tải nào đó (quốc
doanh, công tư hợp doanh hay hợp tác xã vận tải) nhưng cũng phải báo cho cơ
quan giao thông vận tải biết. Nếu cơ quan giao thông vận tải thấy đơn vị vận tải
ấy đảm nhận vận chuyển khối lượng hàng hóa đó sẽ có ảnh hưởng không lợi đến việc
bảo đảm kế hoạch vận tải chung thì cơ quan giao thông vận tải có thể giao khối
lượng hàng hóa đó cho dơn vị vận tải khác vận chuyển.
Vì chức năng
của các cơ quan giao thông vận tải đối với kế hoạch vận tải nói chung của Nhà
nước và của nhân dân như vậy cho nên các chủ hàng phải quan hệ chặt chẽ với các
cơ quan giao thông vận tải và trong trường hợp có hàng ngoài kế hoạch, dù khẩn
cấp, cũng cần lấy ý kiến của các cơ quan giao thông vận tải trước khi ký hợp đồng
hoặc trực tiếp với các đơn vị vận tải. Quy định nguyên tắc này là để nhắc nhở
các chủ hàng thực sự lo lắng đến kế hoạch vận tải chung, đồng thời cũng là để
các cơ quan giao thông vận tải có nhiệm vụ tích cực giải quyết yêu cầu khẩn cấp
của các chủ hàng, nhằm bảo đảm kế hoạch hàng hóa.
Việc ký kết
các hoạt động vận tải nói chung và đặc biệt là các hợp đồng vận tải cụ thể có một
ý nghĩa rất lớn đối với việc bảo đảm hoàn thành kế hoạch của Nhà nước và yêu cầu
vận chuyển hàng hóa của nhân dân là như vậy cho nên ngay những tháng đầu năm, nếu
Chính phủ chưa kịp xét duyệt và công bố chỉ tiêu vận tải trong khi chưa có hợp
đồng nguyên tắc của cấp trên, chưa có kế hoạch cấp trên phân bổ thì bên vận tải
và chủ hàng cũng phải dựa vào kế hoạch dự trù của chủ hàng đã gửi cho bên vận tải
mà tiến hành ký ngay hợp đồng cụ thể. Khối lượng hàng hóa vận chuyển trong những
trường hợp này sẽ tính trừ vào khối lượng hàng vận chuyển mà Chính phủ sẽ công
bố sau này. Nếu bên nào từ chối hoặc trì hoãn việc ký kết hợp đồng coi như vi
phạm pháp luật của Nhà nước (đối với các hợp tác xã, không áp dụng nguyên tắc
này mà chỉ tiến hành ký hợp đồng theo kế hoạch phân bổ của các cơ quan giao
thông vận tải). Nếu trong khi chờ đợi Chính phủ công bố các chỉ tiêu vận chuyển
và cấp trên ký hợp đồng nguyên tắc mà chủ hàng không ký hợp đồng cụ thể với bên
vận tải thì khi yêu cầu vận chuyển sẽ coi là trường hợp đột xuất, ngoài kế hoạch,
kể cả trường hợp chủ hàng đã gửi kế hoạch dự trù cho bên vận tải.
Cục Vận tải
đường thủy có nhiệm vụ phân bổ kịp thời khối lượng hàng hóa mà Bộ đã ký hợp đồng
nguyên tắc, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các xí nghiệp vận tải trực thuộc Trung
ương ký kết và thực hiện các hợp đồng vận tải cụ thể với các chủ hàng đúng với
thủ tục và thời hạn đã quy định trong chế độ hợp đồng kinh tế của Chính phủ và
trong thông tư này.
Các Sở, Ty
Giao thông vận tải các địa phương có nhiệm vụ phân bổ kịp thời kế hoạch vận
chuyển hàng hóa, đôn đốc, hướng dẫn, kiểm tra các xí nghiệp vận tải và các hợp
tác xã vận tải ký kết và thực hiện các hợp đồng vận tải cụ thể theo đúng với thủ
tục và thời hạn đã quy định trong chế độ hợp đồng kinh tế của Chính phủ và
trong thông tư này.
Các chủ hàng
khi ký hợp đồng với các hợp tác xã vận tải phải thực sự tôn trọng quyền dân chủ
bình đẳng của các hợp tác xã để động viên, khuyến khích các hợp tác xã tích cực
phục vụ kế hoạch vận tải của Chính phủ. Cụ thể là nội dung ký kết trong hợp đồng
vận tải phải thực sự bảo đảm được nguyên tắc thỏa thuận giữa hai bên và phải
chiếu cố đến tình hình và điều kiện thực tế của các hợp tác xã, không được gò
ép các hợp tác xã ký kết theo mẫu riêng của mình.
Theo Chỉ thị
số 04-TTg ngày 11-01-1964 của Thủ tướng Chính phủ, Bộ hướng dẫn thủ tục ký kết
hợp đồng vận tải giữa bên vận tải và bên chủ hàng tiến hành như sau:
Sau năm ngày
bên vận tải nhận được kế hoạch vận tải do cơ quan giao thông vận tải phân bổ
(cơ quan giao thông vận tải bao gồm Cục Vận tải đường thủy và các Sở, Ty Giao
thông vận tải) trường hợp một vài tháng đầu năm chưa có kế hoạch của cơ quan
giao thông vận tải phân bổ thì cũng trong vòng năm ngày đầu tháng, bên vận tải
căn cứ vào kế hoạch do Cục Vận tải đường thủy hoặc Bộ phân bổ hoặc dựa vào dự
trù kế hoạch mà chủ hàng đã gửi cho mình, khởi thảo hợp đồng vận tải gửi cho chủ
hàng. Sau năm ngày nhận được dự thảo hợp đồng của bên vận tải nếu chủ hàng
không có kiến nghị gì thì ký trước vào hợp đồng gửi trả lại cho bên vận tải. Nếu
nhận được dự thảo hợp đồng, chủ hàng thấy cần phải trao đổi thêm với bên vận tải
thì cũng trong thời gian năm ngày sau ngày nhận được dự thảo hợp đồng, phải kịp
gửi kiến nghị và trực tiếp tới bàn bạc với bên vận tải.
Trong thời hạn
15 ngày kể từ ngày bên chủ hàng nhận được hợp đồng do bên vận tải gửi đến, hai
bên phải ký xong hợp đồng. Nếu bên nào gây nên chậm trễ hoặc từ chối không ký kết
hợp đồng thì sẽ bị xử lý theo chế độ xử lý về vi phạm chế độ hợp đồng kinh tế của
Chính phủ.
Điểm d trong
điều 6 của điều lệ còn quy định rằng "chủ hàng có khối lượng hàng hóa
dưới 5 tấn thuê vận chuyển trong một chuyến coi như hàng lẻ, không bắt buộc phải
ký hợp đồng với bên vận tải mà chỉ cần làm giấy vận chuyển như quy định ở điều
12 trong điều lệ của Chính phủ. Giấy vận chuyển trong trường hợp này có giá trị
như hợp đồng vận tải".
Quy định này
có nghĩa là trong mọi trường hợp vận chuyển, nếu hai bên chủ hàng và vận tải
không có hợp đồng thì giấy vận chuyển sẽ thay thế cho hợp đồng.
GIAO NHẬN HÀNG HÓA
Giao nhận hàng
hóa là một khâu hết sức quan trọng và phức tạp trong mối quan hệ và phân định
trách nhiệm giữa chủ hàng và bên vận tải.
Giao nhận
hàng hóa nhanh, gọn, tốt là biểu hiện thực hiện kế hoạch tốt, vận chuyển tốt,
tài sản Nhà nước được bảo quản chu đáo, nâng suất phương tiện vận tải được khai
thác hợp lý và quan hệ giữa bên chủ hàng và bên vận tải tốt.
Muốn việc
giao nhận hàng hóa làm được tốt cần làm được những việc sau đây:
1. Phương
pháp giao nhận.
Trong điều 7
của điều lệ có quy định một nguyên tắc là: "hàng hóa đã giao nhận theo
phương pháp nào thì khi trả hàng cũng theo phương pháp ấy".
Theo nguyên tắc
này thì ngay từ khi giao dịch ký hợp đồng, bên chủ hàng phải căn cứ vào tình
hình và tính chất của từng loại hàng mà cùng bên vận tải quy ước cách giao nhận
và ghi cụ thể vào hợp đồng; giao nhận theo khối lượng hay trọng lượng, theo thể
tích, theo nguyên hầm, nguyên kiện, hay theo mớn nước v.v...
Nhưng để
tránh những khó khăn có thể có cho chủ hàng thì trong trường hợp thật bất đắc
dĩ, quy ước này có thể được tiến hành vào lúc bên chủ hàng làm giấy xin gửi
hàng. Sau khi hai bên đã thỏa thuận thì phải ghi rõ quy ước giao nhận vào giấy
vận chuyển.
Người chủ nhận
hàng phải căn cứ vào quy ước giao nhận hàng hóa đã ghi trong giấy vận chuyển mà
nhận hàng chứ tuyệt đối không được đòi hỏi bên vận tải phải giao hàng theo
phương pháp khác.
Thí dụ: trong
giấy vận chuyển ghi là giao nhận theo số lượng kiện thì người nhận hàng cũng phải
căn cứ vào số lượng kiện mà nhận chứ tuyệt đối không được đòi hỏi bên vận tải mở
hòm ra để đếm hoặc cân, đo hàng rồi mới nhận.
Nếu hàng đóng
gói hoặc để vào thùng, hòm v.v... mà có gắn xi, cặp chì niêm phong thì khi
bên vận tải nhận hàng cũng như khi trả hàng cho chủ nhận, bên chủ hàng và
bên vận tải, ngoài việc đếm số lượng kiện hàng còn phải căn cứ vào xi, chì niêm
phong mà giao nhận, đồng thời cũng kiểm tra về trạng thái bên ngoài của kiện
hàng. Nếu xi, chì niêm phong nguyên vẹn và trạng thái bên ngoài bao kiện tốt
thì coi như đã giao nhận đủ. Nếu xi, chì niêm phong mất dấu hoặc không nguyên vẹn
hay trạng thái bên ngoài kiện hàng không nguyên vẹn thì hai bên lập biên bản
(ghi vào giấy vận chuyển là hàng giao nhận có biên bản). trường hợp cần thiết,
phải tổ chức kiểm tra ngay tại chỗ hàng hóa trong bao kiện.
2. Hàng đưa
vận chuyển không đúng loại ghi trong hợp đồng, trong giấy khai hàng.
Điều 9 trong
điều lệ của Chính phủ quy định: "nếu chủ hàng giao hàng hóa không đúng
loại ghi trong giấy gửi hàng, bên vận tải có quyền từ chối vận chuyển, nếu
phương tiện vận tải điều động đến không thích hợp để chở loại hàng ấy".
Quy định này của Chính phủ nhằm mục đích để bảo vệ phương tiện vận tải
và bảo vệ hàng hóa khỏi bị hư hỏng. Tuy vậy, khi áp dụng nguyên tắc này bên vận
tải cần phải vận dụng một cách linh hoạt để tranh thủ phục vụ kế hoạch vận chuyển
hàng hóa được nhiều nhất, nhanh nhất. Nếu chủ hàng đưa toàn bộ khối lượng hàng
đến không đúng với loại hàng đã kê khai và phương tiện vận tải không thích hợp
để bảo vệ an toàn cho hàng hóa thì bên vận tải cần phải từ chối, không nhận vận
chuyển. Từ chối, không nhận vận chuyển trong những trường hợp này tức là bên vận
tải thực hiện chức năng bảo vệ tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Nhưng nếu thấy
rằng có điều kiện cải tiến được phương tiện, không gây nhiều tổn phí lắm mà lại
thuận lợi cho kế hoạch của chủ hàng và chủ hàng thỏa thuận đài thọ mọi phí tổn
thì bên vận tải và chủ hàng cần bàn bạc với nhau biện pháp tiến hành cải tiến
phương tiện vận tải.
Trường hợp
trong khối lượng hàng đưa vận chuyển chỉ có một số ít không đúng loại hàng như
chủ hàng đã kê khai, bên vận tải cần nghiên cứu, nếu xét thấy có thể nhận vận
chuyển được thì nhận cho chủ hàng. Nếu có khối lượng hàng không đúng như đã kê
khai, không thích hợp với phương tiện vận tải thì bên vận tải chỉ được từ chối,
không nhận số hàng không đúng loại như chủ hàng đã kê khai, còn số hàng đúng
như đã kê khai thì bên vận tải vẫn nhận, bên chủ hàng phải trả toàn bộ cước phí
cho bên vận tải theo khối lượng hàng đã kê khai.
3. Trách
nhiệm của người có tên trong giấy vận chuyển.
Điều 10 trong
điều lệ của Chính phủ quy định: "Khi hàng đã vận chuyển đến bến trả
hàng, người nhận có tên ghi trong giấy vận chuyển phải nhận hàng, trường hợp
hàng đến chậm, có hư hỏng hay mất mát một phần cũng không được từ chối".
Quy định này
của Chính phủ là nhằm mục đích bảo vệ hàng hóa, cho nên người đã có tên trong
giấy vận chuyển không được vì bất cứ một lý do nào mà từ chối, không nhận hàng,
kể cả trường hợp người gửi gửi nhầm hàng hoặc nhầm tên. Người có tên trong giấy
vận chuyển buộc phải nhận hàng, bảo quản hàng chu đáo rồi liên hệ với chủ gửi
giải quyết sau.
Người nhận
hàng chỉ có quyền từ chối, không nhận hàng nếu tên và địa chỉ ghi trên các kiện
hàng không phù hợp với tên và địa chỉ của mình. Trường hợp này bên vận tải phải
chịu trách nhiệm về sự lầm lẫn hàng hóa.
Trường hợp giấy
vận chuyển bị mất hoặc thất lạc thì người có tên ghi trên các kiện hàng có
trách nhiệm phải nhận hàng. Trường hợp này người nhận hàng và bên vận tải căn cứ
vào số lượng và thực trạng hàng hóa mà lập biên bản giao nhận. Bên vận tải có
trách nhiệm phải gửi giấy vận chuyển đến cho người nhận hàng. Chỉ khi có giấy vận
chuyển và sau khi đã đối chiếu biên bản với giấy vận chuyển thì hai bên mới được
coi là đã giao nhận chính thức xong hàng hóa.
Trường hợp
bên vận tải đưa hàng đến địa điểm có hàng bị hư hỏng hoặc bị mất mát một phần,
người nhận hàng cũng phải nhận hàng rồi rồi ghi số hàng bị mất hoặc hư hỏng vào
giấy vận chuyển do chủ hàng giữ và giấy vận chuyển do bên vận tải giữ. Chủ nhận
và bên vận tải đều phải ký nhận vào giấy vận chuyển. Nếu trường hợp cần thiết
thì chủ nhận và bên vận tải lập biên bản có người thứ ba làm chứng.
Trong mọi trường
hợp bên vận tải đưa phương tiện vận tải tới địa điểm giao hoặc nhận hàng mà
không tìm thấy chủ hàng thì bên vận tải yêu cầu cơ quan giao thông vận tải hoặc
cơ quan công an hay chính quyền địa phương chứng nhận ngày giờ phương tiện vận
tải đến bến. Trường hợp các cơ quan này không ở gần địa điểm phương tiện đổ và
không thuận tiện đường liên lạc thì bên vận tải có thể yêu cầu cán bộ thôn hoặc
xóm chứng nhận. Khi bên vận tải yêu cầu chứng nhận thì các cơ quan, cán bộ địa
phương có nhiệm vụ chứng nhận vào giấy vận chuyển để làm cơ sở chứng lý khi cần
thiết phải xử lý, phân định trách nhiệm của hai bên vận tải và chủ hàng.
TỔ CHỨC VẬN CHUYỂN
1. Giấy
xin gửi hàng và giấy vận tải.
Thủ tục và thể
thức làm giấy xin gửi hàng và giấy vận chuyển đã được quy định cụ thể trong điều
12 của điều lệ của Chính phủ và đã quy định chi tiết trong Thông tư số 09-TT
ngày 20-06-1964 của Bộ Giao thông vận tải.
Ở đây Bộ giải
thích thêm là theo thông tư 90-TTg do Chính phủ ban hành ngày 06-04-1960 về hợp
đồng vận tải thì trong hợp đồng tháng phải phân bổ khối lượng hàng vận chuyển
ra từng mười ngày một. Như vậy là cứ mỗi chuyến trong mười ngày, bên chủ hàng
phải làm giấy xin gửi hàng gửi trước cho bên vận tải ba ngày như đã quy định
trong điều 12 của điều lệ.
Trường hợp
hai bên ký hợp đồng quý hoặc dài hơn thì từng tháng, hai bên phải gặp nhau để
phân bổ khối lượng hàng vận chuyển cho từng mười ngày một.
2. Trách
nhiệm của việc kiểm tra hàng hóa trong khi giao hoặc nhận hàng.
Theo quy định
của điều 13 thì khi giao hoặc nhận hàng bên vận tải và bên chủ hàng đều có
trách nhiệm phải kiểm tra hàng hóa. Việc kiểm tra hàng hóa trong khi giao và nhận
hàng là một yêu cầu hết sức quan trọng, nhằm mục đích đề cao tinh thần trách
nhiệm bảo vệ hàng hóa và bảo vệ phương tiện vận tải.
Bởi vậy, giao
hoặc nhận bất kỳ theo phương pháp, hình thức nào: nguyên bao, nguyên kiện, hàng
rời, hàng lẻ, hàng có cặp chì, cặp xi, niêm phong v.v...thì nguyên tắc là bên
chủ hàng và bên vận tải phải kiểm tra hàng hóa.
Bên vận tải
chỉ làm giấy vận chuyển hàng hóa sau khi đã kiểm tra hàng hóa và đã nhận xong
hàng; người nhận hàng chỉ ký nhận vào giấy vận chuyển của bên vận tải sau khi
đã kiểm tra và nhận xong hàng.
Việc kiểm tra
hàng hóa phải tiến hàng có mặt chủ hàng và bên vận tải. Hàng nguyên bao, nguyên
kiện thì kiểm tra trạng thái bên ngoài, hàng có cặp chì, cặp xi, niêm phong,
thì vừa kiểm tra trạng thái bên ngoài, vừa kiểm tra xi, chì niêm phong. Cả hai
trường hợp này, còn phải kiểm tra cả số lượng kiện hoặc bao nữa; hàng dễ vỡ, kỵ
ướt, kỵ lửa, v.v... phải kiểm tra dấu hiệu, hình vẽ trên từng kiện hàng.
Đi đôi với việc
kiểm tra hàng hóa, bên vận tải còn phải kiểm tra những giấy tờ kèm theo giấy gửi
hàng có quan hệ đến vận tải hàng hóa như giấy thuế, giấy phép lư thông hàng
hóa, giấy hải quan v.v... theo quy định ở điều 16 của điều lệ.
Điều 18 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ còn quy định "Người phụ trách phương tiện
có quyền không nhận những hàng hóa đóng gói không đúng quy cách". Quy
định này của Chính phủ là nhằm bảo vệ hàng hóa. Do đó, bên vận tải được quyền từ
chối không nhận những hàng hóa đóng gói không chắc chắn. Nhưng với tinh thần
làm chủ, tinh thần bảo vệ kế hoạch Nhà nước, tinh thần hợp tác xã hội chủ
nghĩa, bên vận tải chỉ được từ chối sau khi đã yêu cầu bên chủ hàng sửa chữa lại
mà chủ hàng không chịu sửa chữa lại. Nếu chủ hàng đã sửa chữa lại hoặc có cam
đoan bằng giấy tờ riêng hoặc ký nhận vào giấy vận chuyển rằng bao kiện đã chắc
chắn, có thể bảo đảm an toàn trong vận chuyển thì bên vận tải nhận vận chuyển.
Việc đóng gói
chắc chắn, dán dấu hiệu đầy đủ là trách nhiệm của chủ hàng đối với việc bảo quản
hàng hóa. Cho nên trong mọi trường hợp gây ra hư hỏng hàng hóa, hư hỏng phương
tiện vận tải do sơ suất của việc đóng gói, dán dấu hiệu, kê khai hàng hóa của
chủ hàng thì bên chủ hàng đều phải chịu trách nhiệm. Cũng xuất phát từ quan điểm
này nên trong những trường hợp vì hàng hóa quá nhiều hoặc qua trạng thái bên
ngoài, bên vận tải có sơ suất, không phát hiện được đầy đủ hết các kiện hàng
đóng gói không chắc chắn, dán dấu hiệu không đầy đủ, hàng hóa không kê khai
đúng loại, không có đầy đủ giấy tờ cần thiết mà trong quá trình vận chuyển, xếp
dỡ, hàng hóa bị hư hỏng hoặc gây hư hỏng phương tiện vận tải hoặc bị các nhà chức
trách có thẩm quyền giữ lại thì trách nhiệm vẫn thuộc về bên chủ hàng.
3. Tỷ lệ
hao hụt.
Tỷ lệ hao hụt
nói trong điều 21 của điều lệ là do Nhà nước hoặc Chính phủ ban hành. Còn những
tỷ lệ do từng ngành quy định để áp dụng trong phạm vi ngành thì không phải là tỷ
lệ hao hụt của Nhà nước như tinh thần điều lệ của Hội đồng Chính phủ.
4. Nhiệm vụ
người của chủ hàng đi áp tải hàng hóa.
Điều 23 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định rằng: "Trong từng chuyến hàng nếu
có người đi áp tải, nhiệm vụ của người áp tải phải ghi vào giấy vận chuyển".
Nhiệm vụ chủ
yếu của người đi áp tải hàng hóa là phải chăm lo, săn sóc hàng hóa, không được
để hàng hóa mất mát, phải luôn luôn kiểm tra hàng hóa, phát hiện kịp thời những
hiện tượng hư hỏng, xô lệch để báo cho người phụ trách phương tiện giúp sức giải
quyết. Nếu hàng hóa là súc vật sống thì người áp tải phải chăm lo cho súc vật
ăn uống. Nếu vì lý do nào đó, hàng phải dỡ xuống dọc đường hoặc phương tiện vận
tải phải ngừng lại dọc đường thì người áp tải phải cộng tác với bên vận tải,
chăm lo, bảo quản hàng hóa, liên hệ với các cơ quan chính quyền địa phương khi
cần thiết, báo tin cho chủ hàng biết v.v... ký nhận vào biên bản do người phụ
trách phương tiện làm khi có những vấn đề có liên quan đến vấn đề hàng hóa hoặc
phương tiện vận tải.
Đối với hàng
hóa có người của của chủ hàng đi áp tải, bên vận tải cũng cần phải có phần
trách nhiệm bảo quản hàng hóa như cộng tác, giúp đỡ người đi áp tải trong mọi
trường hợp cần thiết để bảo vệ an toàn hàng hóa. Trường hợp hàng hóa phải dỡ ở
dọc đường hoặc phương tiện phải tạm ngừng ở dọc đường thì bên vận tải phải cùng
người áp tải của chủ hàng chăm lo giải quyết mọi vấn đề cần thiết để bảo vệ
hàng hóa chứ tuyệt đối bên vận tải không được khoán trắng cho người đi áp tải.
Trường hợp hàng phải dỡ ở dọc đường, phương tiện vận tải chỉ được rời bến khi
nào đã được chủ hàng có ý kiến hoặc việc chăm lo bảo quản hàng hóa đã được
chính quyền địa phương bảo đảm.
Khi hàng hóa
có người của chủ hàng đi áp tải, bên vận tải và bên chủ hàng dựa vào những
nguyên tắc này, thảo luận cụ thể nhiệm vụ của người đi áp tải mà ghi vào giấy vận
chuyển và hợp đồng.
5. Cách giải
quyết hàng có triệu chứng đe dọa an toàn trong quá trình vận chuyển.
Điều 24 trong
điều lệ của Chính phủ quy định: "Trong khi vận chuyển, nếu có triệu chứng
một thứ hàng nào có thể làm hư hỏng những hàng hóa cùng xếp trên phương tiện hoặc
đe dọa an toàn chung, thì người phụ trách phương tiện có quyền dỡ hàng lên bờ và
có nhiệm vụ liên hệ với nhà chức trách địa phương để giải quyết số hàng
này".
Theo quy định
này thì các Ủy ban hành chính địa phương có nhiệm vụ phải giải quyết những trường
hợp khi hàng hóa có triệu chứng không an toàn, phải dỡ xuống dọc đường. Để tránh
được những tổn thất thì khi Ủy ban hành chính địa phương nhận được tin của người
phụ trách phương tiện vận tải hoặc của người đi áp tải hàng hóa báo có hàng phải
dỡ xuống dọc đường thì Ủy ban hành chính địa phương có nhiệm vụ khẩn trương giải
quyết mọi khó khăn để hàng hóa có thể dỡ lên bờ đường nhanh chóng. Nếu hàng hóa
không có người của chủ hàng đi áp tải thì Ủy ban hành chính địa phương có nhiệm
vụ tổ chức bảo quản hàng hóa, liên hệ với chủ hàng giải quyết. Trường hợp này
bên vận tải phải lập biên bản giao hàng dỡ xuống dọc đường cho Ủy ban hành
chính địa phương, đồng thời tìm biện pháp nhanh nhất báo tin cho chủ hàng biết.
Mọi chi phí
trong trường hợp này do chủ hàng phải đài thọ.
6. Thanh
toán cước phí vận tải trong trường hợp phương tiện vận tải bị trưng dụng ở dọc
đường.
Trường hợp
này, bên vận tải vẫn được thu toàn bộ cước phí, cơ quan trưng dụng có nhiệm vụ
thanh toán lại cước phí với bên chủ hàng như điều 26 trong điều lệ của Hội đồng
Chính phủ đã quy định: "... cơ quan trưng dụng phải thanh toán cước phí
và mọi phụ phí khác nếu có do việc trưng dụng gây nên".
7. Chuyển
tải.
Điều 27 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định:
"Trên
đường đi, nếu qua các cầu, cống mà cần phải chuyển tải thì bên vận tải đảm nhiệm
việc tổ chức chuyển tải, chi phí do chủ hàng chịu. Ở các bến đi và bến đến, nếu
bên nào đảm nhiệm việc xếp dỡ thì bên đó có trách nhiệm tổ chức chuyển tải".
Để thi hành
quy định này, Bộ giải thích cụ thể như sau: Trong mọi trường hợp nhận vận chuyển,
nếu biết trước rằng trên đường đi sẽ có chuyển tải thì bên chủ hàng phải cho
người đi áp tải hàng hóa để giám sát việc chuyển tải hàng hóa ở dọc đường, trừ
trường hợp bên vận tải và chủ hàng thấy rằng không cần phải có người của chủ
hàng đi áp tải.
Nếu hàng hóa
chở nguyên hầm có cặp chì, niêm phong của hầm thì nhất thiết bên chủ hàng phải
có người đi áp tải để chứng nhận việc mở cửa hầm và cặp lại chì và tiếp tục áp
tải hàng hóa.
Nếu hàng chở
nguyên hầm có dỡ bớt xuống dọc đường thì chủ nhận tự tháo xi, chì niêm phong cửa
hầm. Khi đã dỡ xong số hàng phải dỡ thì chủ hàng đã nhận hàng phải cặp lại chì ở
cửa hầm.
Trường hợp vận
chuyển hàng hóa bằng thuyền, giữa đường có chuyển tải, nếu đã biết trước có
chuyển tải thì chủ hàng phải có người đi áp tải, trường hợp không cần thiết thì
chủ hàng có thể làm giấy ủy quyền cho bên vận tải; nếu việc chuyển tải không được
biết trước thì thuyền có nhiệm vụ tổ chức vận tải và lập biên bản có người thứ
ba chứng nhận. Chi phí do chủ hàng đài thọ.
XẾP DỠ HÀNG HÓA
Thời gian
xếp dỡ:
Thời gian xếp
dỡ hàng hóa là thời gian đã ghi trong hợp đồng hoặc trong giấy vận chuyển. Điều
32 trong điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định: c) Thời gian xếp dỡ tính từ
giờ thứ ba sau giờ bên vận tải đã báo phương tiện đến bến. Bên vận tải hoặc
bên chủ hàng đã làm nhiệm vụ xếp hàng, dỡ hàng, đều phải đề cao tinh thần trách
nhiệm, bảo đảm thời gian đã ghi trong hợp đồng hoặc giấy vận chuyển. Nếu gặp
trường hợp khó khăn về nhân lực hoặc bất cứ điều kiện nào khác thì hai bên phải
bàn bạc, giúp đỡ nhau kế hoạch. Nếu đã bàn bạc, đã hết sức giúp đỡ nhau, nhưng
thời gian xếp dỡ không được bảo đảm thì bên đảm nhiệm việc xếp dỡ phải chịu
trách nhiệm.
Nếu chuyến
hàng vận chuyển bằng một đoàn nhiều thuyền, theo yêu cầu của chủ hàng thì bên
nào (chủ hàng hay vận tải) có nhiệm vụ xếp dỡ phải chuẩn bị đủ điều kiện để
không gây ứ đọng phương tiện. Nếu chiếc thuyền nào bị ứ đọng, không được giải
phóng đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng hay giấy vận chuyển thì bên nào gây ứ
đọng bên đó phải chịu trách nhiệm.
Nếu chuyến
hàng vận chuyển bằng nhiều sà-lan do một tầu kéo thì bên phụ trách xếp dỡ phải
bảo đảm xếp hoặc dỡ xong cả đoàn sà-lan và tầu đúng thời hạn đã ghi trong hợp đồng
và giấy vận chuyển. Nếu một sà-lan xếp dỡ không bảo đảm thời hạn, gây ứ đọng
lây các sà-lan khác thì bên đảm nhiệm việc xếp dỡ phải chịu trách nhiệm đối với
cả đoàn sà-lan và tầu bị ứ đọng.
Trường hợp
phương tiện vận tải đã tới địa điểm xếp hoặc dỡ hàng, nếu ở các cảng biển, vì
lý do nào đó kể cả khi phải nhường ưu tiên cho tầu ngoài quốc, bên đảm nhiệm xếp
dỡ không bảo đảm được thời hạn xếp dỡ thì có trách nhiệm bồi thường ứ đọng
phương tiện vận tải, trừ trường hợp đặc biệt có lệnh tạm ngừng xếp dỡ của Chính
phủ hoặc của Bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải, của Ủy ban hành chính cấp tỉnh địa
phương hay đã có tin loan báo trước 12 giờ của cảng đã được cấp trên cho phép.
Đối với các bến sông công cộng đã được các cơ quan giao thông vận tải công bố,
nếu vì lý do nào đó, phương tiện vận tải đã tới địa điểm giao hoặc nhận nhưng
không vào được bến thì bên vận tải không tính phí tổn chờ đợi đối với những giờ
phương tiện vận tải chưa vào được bến và nếu thời hạn vận chuyển đã ghi trong hợp
đồng hay giấy vận chuyển không được bảo đảm thì bên vận tải cũng không phải bồi
thường cho chủ hàng.
Điểm c trong
điều 32 của điều lệ còn quy định rằng: "Thời gian xếp dỡ tính từ giờ thứ
ba sau giờ bên vận tải đã báo phương tiện đến bến theo quy định ở điều 30 của
điều lệ của Hội đồng Chính phủ.
Nếu phương
tiện đến trước giờ đã xác báo thì thời gian xếp dỡ cũng tính từ giờ thứ ba, sau
giờ báo phương tiện đã đến bến".
Quy định này
của Chính phủ nhằm mục đích để khỏi gây lãng phí thì giờ chờ đợi của phương tiện
vận tải, cho nên khi đã nhận tin phương tiện vận tải đã tới địa điểm xếp hoặc dỡ
thì dù phương tiện vận tải đã tới địa điểm trước thời hạn đã ghi trong hợp đồng
hay giấy vận chuyển thì bên nào đảm nhiệm xếp dỡ (chủ hàng hay vận tải) cũng phải
tiến hành xếp dỡ ngay giờ thứ ba sau giờ phương tiện đã đến bến. Nếu bên vận tải
đảm nhiệm việc xếp dỡ mà không tiến hành xếp dỡ được đúng như điều lệ của Hội đồng
Chính phủ đã quy định, phương tiện vận tải phải đọng lại thì bên vận tải không
được tính tiền chờ đợi với chủ hàng. Nếu quá thời hạn đã ghi trong hợp đồng hay
giấy vận chuyển, bên vận tải không xếp hoặc dỡ xong hàng, do đó không bảo đảm
được thời hạn vận chuyển như quy định trong điều 17 của điều lệ của Hội đồng
Chính phủ thì bên vận tải phải bồi thường cho bên chủ hàng.
Nếu bên chủ
hàng đảm nhiệm việc xếp dỡ mà phương tiện vận tải đến bến sớm hơn thời hạn đã
ghi trong giấy vận chuyển hoặc hợp đồng mà bên chủ hàng không bảo đảm được thời
hạn xếp dỡ tính từ giờ thứ ba sau giờ bên vận tải đã báo tin thì theo điều lệ của
Hội đồng Chính phủ đã quy định, bên chủ hàng phải bồi thường phí tổn chờ đợi
cho bên vận tải. Nhưng trong hoàn cảnh phương tiện đến địa điểm đột xuất này,
có thể gây khó khăn cho bên chủ hàng. Để giải quyết khó khăn cho chủ hàng trường
hợp phương tiện vận tải có thể tới địa điểm sớm thì bên vận tải phải tìm mọi biện
pháp báo cho chủ hàng biết trước giờ phương tiện đến địa điểm hai giờ để chủ
hàng có thêm thì giờ chuẩn bị.
Các cơ quan
giao thông vận tải có trách nhiệm phải cộng tác với các xí nghiệp vận tải, lo
liệu việc xếp dỡ hàng hóa ở những bến công cộng để bảo đảm công việc xếp dỡ được
nhanh, gọn, đúng thời hạn.
CƯỚC PHÍ, PHỤ PHÍ – THANH TOÁN
Điều 36 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định: a) Chủ hàng phải thanh toán ngay cước
phí và phụ phí sau khi bên vận tải đã nhận xong hàng hóa và đã làm xong giấy vận
chuyển.
Đối với hợp
đồng vận chuyển hàng quý, hàng tháng hoặc nhiều chuyến liên tục, chủ hàng phải
thanh toán cho bên vận tải chậm nhất là ba ngày sau khi vận chuyển xong hàng
hóa của mỗi chuyến.
Điều cần lưu
ý là đã thuê vận chuyển thì chủ hàng phải trả tiền cước phí và phụ phí vận tải
cho bên vận tải như Chính phủ đã quy định.
Nếu hàng hóa
bị hư hỏng hay mất mát do chủ nhận phát hiện ra thì hai bên lập biên bản để tiến
hành giải quyết, còn cước phí và phụ phí vận tải, bên chủ hàng vẫn phải thanh
toán cho bên vận tải, không được vịn lý do vì hàng thiếu hay hư hỏng mà giữ tiền
cước vận tải lại.
BỒI THƯỜNG, PHẠT
1. Bồi thường
hàng hóa bị mất hoặc hư hỏng.
Điều 39 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định: "Giá hàng mất hay hư hỏng phải
bồi thường là giá mua theo hóa đơn, cộng với tất cả các khoản chi phí mà chủ
hàng đã phải trả để đưa hàng đến địa điểm giao cho bên vận tải...".
Như vậy là nếu
bên vận tải làm mất hàng hoặc hư hỏng hàng thì ngoài việc phải bồi thường cho
chủ hàng theo giá đã mua còn phải bồi thuờng cho bên chủ hàng tất cả các khoản
chi phí mà chủ hàng đã phải trả như tiền vận tải, thuế, v.v... Ở đây Bộ cũng cần
giải thích rõ là hàng hư hỏng nói trong điều 39 của điều lệ của Hội đồng
Chính phủ là nói hư hỏng không còn dùng được nữa thì bên vận tải mới phải bồi
thường cho chủ hàng các khoản chi phí mà chủ hàng đã phải trả để đưa hàng đến địa
điểm giao cho bên vận tải, còn đối với hàng hư hỏng chỉ giảm phẩm chất hoặc sửa
chữa lại vẫn bảo đảm được phẩm chất thì bên vận tải không phải bồi thường những
chi phí về vận tải, về thuế mà chỉ bồi thường phần hư hỏng như đã quy định ở điểm
b của điều 39 trong điều lệ.
2. Bồi thường
vì không có đủ phương tiện hoặc hàng hóa đối với từng chuyến và đối với từng hợp
đồng.
Điều 40 trong
điều lệ của Hội đồng Chính phủ quy định: "…từng chuyến, nếu bên vận tải
không cung cấp đủ số phương tiện đã xác báo thì phải bồi thường cho chủ hàng:
ngược lại, nếu chủ hàng không có hoặc không đủ số hàng vận chuyển, phải bồi thường
cho bên vận tải, trừ trường hợp chủ hàng hoặc bên vận tải có báo cho nhau chậm
nhất sáu giờ sau khi bên vận tải đã báo tín đưa phương tiện đến xếp hàng. Những
chuyến chở quá số hàng, hoặc chở bù cho những chuyến không chở, bên vận tải được
tính bù trừ cho cả thời gian đã ký hợp đồng...".
Theo quy định
này thì chậm nhất sáu giờ sau khi bên vận tải đã báo tin đưa phương tiện đến xếp
hàng, nếu hai bên không có báo cho nhau biết số phương tiện hoặc số hàng chuyến
đó sẽ không có đủ thì phải bồi thường cho nhau như đã quy định cho ngay từng
chuyến đó. Ngoài tiền bồi thường vì lỡ kế hoạch, bên vận tải còn được thu ở chủ
hàng tiền huy động phương tiện và tiền phương tiện phải chờ đợi nếu có như
Thông tư 90-TTg ngày 06-04-1960 của Thủ tướng Chính phủ đã quy định. Nếu khi hết
thời hạn hợp đồng, hai bên tổng kết, bên nào không hoàn thành thời hạn hay
không có đủ phương tiện vận tải hoặc không có đủ hàng như hợp đồng đã ký thì phải
bồi thường cho bên bị lỡ hợp đồng.
Điều cần lưu
ý là mặc dù từng chuyến bên vận tải hoặc bên chủ hàng không có đủ hàng hay
không có đủ phương tiện vận tải có phải bồi thường từng chuyến nhưng nếu có những
chuyến chở tăng số hàng, đưa tăng phương tiện mà cuối hợp đồng, khối lượng hàng
vận chuyển trong hợp đồng đã được vận chuyển đủ và đúng thời hạn của hợp đồng
thì coi là hợp đồng đã thực hiện tốt, hai bên không phải bồi thường cho nhau.
Thực hiện điều
lệ của Hội đồng Chính phủ là một cải tiến rất lớn và rất mới trong công tác vận
chuyển hàng hóa của ngành vận tải đường sông và vận tải bằng phương tiện thô sơ
đường biển. Những quy định của điều lệ là những cơ sở nghiệp vụ vận chuyển hàng
hóa của ngành vận tải đường sông và ngành vận tải thô sơ đường biển, đồng thời
nó là những nguyên tắc pháp lý để đưa công tác vận tải đường sông và vận tải
thô sơ đường biển đi vào nề nếp chính quy.
Chẳng những vậy,
tinh thần và các nguyên tắc quy định trong điều lệ còn có tác dụng rất lớn giáo
dục cho các chủ hàng và bên vận tải về ý thức hợp tác xã hội chủ nghĩa, về ý thức
dân chủ, bình đẳng trong quan hệ giao dịch với nhau, đồng thời các quy định của
điều lệ còn có tác dụng thúc đẩy tinh thần cách mạng, tinh thần đấu tranh của
các chủ hàng và bên vận tải, nhằm tăng cường ý thức tổ chức, ý thức kỷ luật để
bảo đảm hoàn thành yêu cầu vận chuyển hàng hóa của Nhà nước và của nhân dân.
Các chủ hàng
và bên vận tải cần quán triệt ý nghĩa chính trị, ý nghĩa pháp lý của điều lệ
như vậy mà cộng tác với nhau, giúp đỡ lẫn nhau và thúc đẩy lẫn nhau thi hành
cho nghiêm chỉnh điều lệ của Hội đồng Chính phủ.
Bước đầu thực
hiện, tất nhiên sẽ gặp những khó khăn về tổ chức, về lề lối và nề nếp làm việc.
Các chủ hàng và bên vận tải cần khắc phục mọi khó khăn để thi hành cho tốt điều
lệ của Chính phủ. Trong quá trình thi hành, nếu có mắc mứu gì hoặc có điều nào
chưa hiểu đầy đủ hoặc thấy có vấn đề gì cần bổ sung thêm hoặc cần sửa đổi thì
phải báo cáo cho Sở, Ty Giao thông vận tải biết để nghiên cứu giải quyết.
Cục vận tải
đường thủy, các Sở, Ty Giao thông vận tải có nhiệm vụ hướng dẫn, đôn đốc và
giúp đỡ các đơn vị vận tải thi hành tốt điều lệ của Hội đồng Chính phủ theo
đúng tinh thần hướng dẫn của thông tư này. Văn phòng Bộ có nhiệm vụ theo dõi
chung, tổng hợp tình hình và khi cần thiết thì giải thích tinh thần các quy định
của điều lệ và thông tư này.
|
K.T.
BỘ TRƯỞNG BỘ GIAO THÔNG VẬN TẢI
THỨ TRƯỞNG
Dương Bạch Liên
|