TỔNG CỤC THỐNG KÊ
*******
|
VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HÒA
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
*******
|
Số: 262-TCTK/TH
|
Hà Nội, ngày 24
tháng 03 năm 1971
|
THÔNG
TƯ
HƯỚNG
DẪN VIỆC SỬ DỤNG BẢNG GIÁ CỐ ĐỊNH MỚI
Thi hành Quyết định
số 198-CP ngày 26-10-1970 của Hội đồng Chính phủ, ngày 05 tháng 01 năm 1971,
Tổng cục Thống kê đã ra Quyết định số 02-TCTK/QĐ ban hành chính thức bảng giá
cố định mới, gọi là bảng giá cố định năm 1970, thay thế bảng giá cố định cũ năm
1959 ban hành ngày 01-01-1961.
Để việc thi hành bảng
giá cố định mới được thống nhất, Tổng cục Thống kê hướng dẫn một số điểm cụ thể
sau đây.
Phần 1.
CÁC
NGUYÊN TẮC CHUNG
1. Kể từ ngày 01-7-1971,
bảng giá cố định mới được sử dụng thống nhất từ trung ương đến các đơn vị sản
xuất cơ sở, các cơ quan nghiên cứu, quản lý kinh tế. Kế hoạch Nhà nước năm 1971
khi điều chỉnh lại vào giữa năm cũng phải tính theo giá cố định mới. Năm 1970
là năm gốc của kế hoạch Nhà nước năm 1971 và của các năm sau, vì vậy các chỉ
tiêu giá trị tổng sản lượng năm 1970 và quý I, quý II năm 1971, trước đây đã
tính theo giá cố định cũ, nay phải tính lại theo giá cố định mới để phục vụ cho
việc xây dựng và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước.
2. Bảng giá cố định mới
bao gồm trên 5.400 mặt hàng công nghiệp, nông nghiệp, gia công, chế biến, sửa
chữa, phân chi tiết theo từng ngành, từng loại, từng quy cách, từng vùng sản
xuất khác nhau và được xây dựng trên cơ sở giá bán buôn xí nghiệp (giá thành
hợp lý + lãi định mức) của thời kỳ sản xuất tương đối ổn định đối với sản phẩm
công nghiệp, giá thu mua bình quân đối với sản phẩm nông nghiệp và thủ công
nghiệp.
Bảng giá cố định này
nhằm phục vụ yêu cầu quản lý sản xuất, nghiên cứu kinh tế của nhiều cấp (trung
ương, địa phương, các đơn vị cơ sở) vì vậy có giá bình quân chung toàn quốc và
giá phân vùng địa phương, có giá cho xí nghiệp quốc doanh trung ương và giá cho
thủ công nghiệp địa phương, có giá toàn bộ sản phẩm (cả nguyên vật liệu), và
giá riêng phần gia công. Khi sử dụng cần căn cứ vào yêu cầu quản lý và nghiên
cứu của các cấp và phương pháp tính toán theo chế độ hiện hành, để áp dụng các
loại giá thích đáng.
3. Tuy bao gồm trên
5400 mặt hàng có giá, song bảng giá cố định mới vẫn chưa thể đáp ứng toàn bộ
yêu cầu sản xuất thực tế của nước ta. Vì vậy cần phải được tiếp tục bổ sung
thêm. Nguyên tắc bổ sung vào bảng giá cố định mới như sau:
Những mặt hàng của xí
nghiệp công nghiệp trung ương sản xuất chưa được ghi vào bảng giá này, sẽ do
Bộ. Tổng cục chủ quản xây dựng và ban hành sau khi đã được sự đồng ý bằng văn
bản của Tổng cục Thống kê để bổ sung chính thức vào bảng giá cố định.
Những mặt hàng công
nghiệp địa phương, tiểu và thủ công nghiệp, cũng như mặt hàng nông nghiệp chưa
ghi trong bảng giá này, sẽ do Ủy ban hành chính tỉnh ban hành, sau khi đã cùng
ty chủ quản, Ủy ban kế hoạch tỉnh và chi cục thống kê họp bàn và đã được sự
đồng ý bằng văn bản của Tổng cục Thống kê, để bổ sung chính thức vào bảng giá
cố định.
Khi xây dựng giá cố
định các sản phẩm mới, các cơ quan có trách nhiệm cần vận dụng các nguyên tắc
sau đây:
a) Nếu sản phẩm đã
được sản xuất hàng loạt, có kế hoạch sản xuất tiêu thụ, thì lấy giá bán buôn xí
nghiệp hiện hành (giá thành + lãi định mức) làm giá cố định mới.
b) Nếu sản phẩm mới
sản xuất thử, chưa đi vào sản xuất hàng loạt, giá cố định mới được tính như
sau: dùng hệ số giữa giá cố định và giá bán buôn công nghiệp hiện hành của một
loại sản phẩm tương đương có trong bảng giá cố định mới, rồi nhân với giá bán
buôn công nghiệp hiện hành của sản phẩm mới. Ví dụ một máy bơm A chưa có giá cố
định, chỉ có giá bán buôn công nghiệp là 5000đ. Một loại máy bơm B tương đương
với máy bơm A, có giá cố định mới là 6000đ và giá bán buôn công nghiệp là
7000đ.
Hệ số tính là: = 0.857
Giá cố định mới của
máy bơm A là:
5000 x 0,857 = 4285
đồng.
c) Nếu sản phẩm chưa
sản xuất hàng loạt, chưa có sản phẩm tương đương để tính đổi từ giá hiện hành
ra giá cố định, thì tạm dùng giá kế hoạch làm giá cố định.
4. Việc sử dụng giá cố
định bình quân chung, giá phân vùng, giá chi tiết của từng mặt hàng được quy
định như sau:
a) Đối với sản phẩm
công nghiệp:
Giá bình quân chung dùng cho cơ quan trung ương để nghiên cứu các vấn đề có
tính chất phương hướng. Ví dụ: giá than tiêu chuẩn 26đ/tấn, gỗ tròn các loại
48đ/m3, giấy các loại 1500đ/tấn v.v…
Lúc xây dựng kế hoạch
sản xuất và kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Nhà nước, các Bộ, các Tổng
cục và cơ sở sản xuất nhất thiết phải tính giá chi tiết theo phẩm chất, quy
cách của từng loại sản phẩm. Ví dụ: Mỏ Quảng Ninh than cục 37đ/tấn, than cám
24đ/tấn, gỗ loại II, xi măng P500 ngoại, giấy viết Hoàng Văn Thụ v.v… đều phải
theo giá chi tiết từng loại sản phẩm mà tính.
b) Đối với sản phẩm
nông nghiệp:
giá bình quân chung dùng cho cơ quan ở trung ương và tỉnh để lập kế hoạch,
duyệt kế hoạch và tổng hợp nghiên cứu tốc độ phát triển chung toàn quốc.
Giá quy định riêng
cho từng vùng có phân loại, vì tính theo giá thu mua bình quân của địa phương,
nên để các địa phương tùy theo yêu cầu quản lý và nghiên cứu kinh tế của địa
phương mà sử dụng.
Ví dụ: tỉnh Hà Bắc có
sản lượng bằng hiện vật như sau:
Đậu tương 300 tấn
(loại 1 = 200 tấn, loại 2 = 100 tấn)
Đậu xanh 130 tấn
(loại 1 = 50 tấn, loại 2 = 80 tấn)
Đường mật 60 tấn
(loại 1 = 20 tấn, loại 2 = 40 tấn)
Giá cố định bình quân
chung toàn quốc: đậu tương 660 đ/tấn, đậu xanh 720đ/ tấn, đường mật 550đ/tấn.
Giá trị tổng sản
lượng của tỉnh Hà Bắc tính theo giá trị bình quân chung để báo cáo cho Nhà nước
và tổng hợp lên toàn quốc là:
Đậu tương = 300 tấn x
660 đ = 198.000
Đậu xanh = 130 tấn x
720đ = 93.600
Đường mật = 60 tấn x
550đ = 33.000
Tổng cộng: 324.600
đồng
Giá cố định phân vùng
cho Hà Bắc (vùng 1):
Đậu tương loại 1:
720đ/tấn, loại 2: 660đ/tấn
Đậu xanh loại 1:
750đ/tấn, loại 2: 710dđ/tấn
Đường mật loại 1:
650đ/tấn, loại 2: 620đ/tấn
Giá trị tổng sản
lượng tỉnh Hà Bắc tính theo giá phân vùng cho địa phương:
(200 x 720đ) + (100 x
660đ) + (50 x 750đ) + (80 x 710) + (20 x 650đ) + (40 x 620đ) = 342.100 đồng.
Số liệu tính theo giá
phân vùng địa phương không thể dùng để tổng hợp lên toàn quốc được mà chỉ dùng
riêng cho địa phương.
Các nông trường quốc
doanh trung ương, vì nhận trực tiếp kế hoạch của Bộ Nông trường nên quy định
thống nhất là dùng giá bình quân chung để tính chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng
nông nghiệp không dùng giá cố định riêng vùng địa phương của nông trường.
5. Để phục vụ nhu cầu
quản lý sản xuất và lưu thông phân phối, trong bảng giá cố định mới, một số sản
phẩm vừa có giá gia công, vừa có giá toàn bộ (bao gồm tiền công và nguyên vật
liệu). Khi tính chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng, việc sử dụng các loại giá trên
được quy định như sau:
a) Những sản phẩm do
chế độ hiện hành quy định chỉ tính giá trị gia công, như sản phẩm ngành may
mặc, nhuộm vải, in vải, sơn mạ kền, sản phẩm ngành in, kẻ giấy, xén giấy, sấy
chè, sấy kén tằm thì dùng giá gia công.
b) Ngoài những sản
phẩm trên, tất cả các sản phẩm khác phải dùng giá toàn bộ sản phẩm. Trường hợp
trong bảng giá cố định mới chưa có giá toàn bộ chỉ có giá gia công thì trong
khi chờ đợi bổ sung, tạm dùng giá gia công cộng thêm giá nguyên vật liệu theo
giá chỉ đạo làm giá cố định.
Việc tính theo giá
toàn bộ (bao gồm cả nguyên vật liệu) của một số sản phẩm, xét có chỗ chưa thỏa
đáng vì có tính trùng, nhưng trong khi chờ đợi nghiên cứu giải quyết vẫn phải
thi hành theo chế độ cũ.
6. Một số sản phẩm của
tiểu công nghiệp, thủ công nghiệp như mật trầm, đường phèn, đường cát, mật
giọt, chè khô sơ chế, tinh dầu v.v… dùng nguyên vật liệu của nông nghiệp và nằm
trong diện thu mua nên giá cố định tính theo giá thu mua và sắp xếp ở phần nông
nghiệp, không sắp xếp ở phần giá quy định cho các xí nghiệp công nghiệp trung
ương.
7. Trong bảng giá cố
định mới, giá sản phẩm công nghiệp hạ hơn giá cũ, giá sản phẩm nông nghiệp cao
hơn giá cũ. Điều đó phản ánh đúng đắn mối quan hệ hao phí lao động xã hội hiện
nay. Sự thay đổi về giá cả nói trên làm cho quan hệ giá trị tổng sản lượng giữa
công nghiệp và nông nghiệp, giữa các ngành và các xí nghiệp với nhau có sự thay
đổi. Cụ thể là giá trị tổng sản lượng của công nghiệp sẽ hạ xuống, của nông
nghiệp sẽ tăng lên. Trong công nghiệp, giá trị sản lượng ngành cơ khí sẽ hạ
xuống. Vì giá cả của thời kỳ nào phản ảnh mối quan hệ hao phí lao động của thời
kỳ ấy nên các quan hệ về tỷ lệ, về tốc độ giữa các ngành từ năm 1970 trở về
trước, tính theo giá cố định cũ, nay vẫn giữ nguyên không cần phải dùng giá cố
định mới để tính lại.
8. Để phục vụ cho việc
lập kế hoạch Nhà nước, và có số liệu năm gốc so sánh tốc độ phát triển của nền
kinh tế quốc dân, Tổng cục Thống kê quy định:
a) Các xí nghiệp, các
đơn vị sản xuất cơ sở, các Bộ, Tổng cục, các tỉnh, thành phố đều phải tính lại
chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng của mình năm 1970 theo giá cố định mới. Nguyên
tắc tính là phải theo từng mặt hàng sản xuất, tính tổng hợp từ cơ sở trở lên.
Phương pháp cụ thể sẽ
hướng dẫn ở phần sau.
b) Khi cơ quan kế
hoạch điều chỉnh các chỉ tiêu kế hoạch năm 1971 theo giá cố định mới, thì công
tác thống kê cũng phải tính theo giá cố định mới, phục vụ kịp thời cho việc
kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch Nhà nước quý và năm 1971.
Các xí nghiệp quốc
doanh trung ương phải báo cáo kết quả tính lại số liệu năm 1970 theo giá cố
định mới cho Bộ, Tổng cục chủ quản và Tổng cục Thống kê theo biểu mẫu dưới đây
và chậm nhất vào ngày 31 tháng 5 năm 1971 (biểu mẫu số 1).
Các Bộ, Tổng cục tổng
hợp số liệu của các đơn vị do mình quản lý và báo cáo cho Tổng cục Thống kê
theo biểu mẫu có phân tổ chi tiết dưới đây chậm nhất vào ngày 15 tháng 6 năm
1971 (biểu mẫu số 2).
Chỉ tiêu giá trị tổng
sản lượng công nghiệp địa phương và thủ công nghiệp năm 1970 cũng phải được các
tỉnh, thành phố tính lại theo giá cố định mới và gửi cho Tổng cục Thống kê theo
biểu mẫu cũng như trên (biểu mẫu số 2), chậm nhất vào ngày 15 tháng 6 năm 1971.
Chỉ tiêu giá trị tổng
sản lượng nông nghiệp năm 1970 cũng phải được các Ủy ban hành chính tỉnh, thành
phố, Bộ Nông trường tính lại theo giá cố định mới, có phân tổ theo ngành trồng
trọt (cây lương thực, cây công nghiệp) chăn nuôi, trồng cây gây rừng… phân theo
thành phần kinh tế và gửi báo cáo lên Tổng cục Thống kê vào ngày 15-6-1971
(biểu mẫu số 2).
Tổng cục Thống kê
tổng hợp chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng công nghiệp, nông nghiệp toàn quốc năm
1970 theo giá cố định mới làm cơ sở cho việc so sánh kế hoạch Nhà nước năm 1970
và các năm sau.
9. Các số liệu thống kê
tính theo giá cố định cũ từ năm 1969 trở về trước, nay không cần thiết phải
tính lại tất cả theo giá cố định. Việc tính lại theo giá mới chỉ tiến hành cho
những năm mốc khi cần thiết để so sánh.
Phương pháp tính đổi
là phương pháp tính hệ số thống nhất được hướng dẫn cụ thể ở bảng sau.
Biểu
số 1
GIÁ
TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG XÍ NGHIỆP NĂM 1970
(tính lại theo giá cố
định mới)
|
Theo giá cố định cũ
năm 1959
|
Theo giá cố định
mới năm 1979
|
Hệ số tính đổi
|
A
|
1
|
2
|
3 = 2/1
|
TỔNG SỐ
Quý I
Quý II
Quý III
Quý IV
|
|
|
|
Biểu
số 2
GIÁ
TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG CÔNG NGHIỆP NĂM 1970
CỦA
BỘ, TỔNG CỤC…
(tính lại theo giá cố
định mới)
|
Theo giá cố định cũ
năm 1959
|
Theo giá cố định
mới năm 1979
|
Hệ số tính đổi
|
A
|
1
|
2
|
3 = 2/1
|
TỔNG SỐ
Phân theo 4 quý (I,
II, III, IV)
Phân theo nhóm A,
nhóm B
Phân theo 13 ngành
công nghiệp
Phân theo thành
phần kinh tế
|
|
|
|
Phần 2.
PHƯƠNG
PHÁP TÍNH LẠI GIÁ TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG NĂM 1970 THEO GIÁ CỐ ĐỊNH MỚI
Nguyên tắc để tính
lại số liệu năm 1970 theo giá cố định mới là phải tính toàn bộ kết quả hoạt
động sản xuất trong năm, tính cụ thể từ từng mặt hàng và tổng hợp từ các cơ sở
sản xuất lên các Bộ, các ngành đến toàn quốc.
Để thống nhất việc
tính toán, tổng hợp được nhanh chóng, Tổng cục Thống kê quy định phương pháp
tính cụ thể như sau:
Đối với các xí
nghiệp.
a) Liệt kê các sản
phẩm chủ yếu, sản phẩm phụ, các sản phẩm khác đã sản xuất trong năm 1970 xác
định rõ quy cách, phẩm chất kỹ thuật, đối chiếu với bảng giá cố định mới ban
hành, tìm đơn giá mới cho chính xác.
Không cần liệt kê các
sản phẩm mà bảng giá cố định mới chưa nêu lên, - công việc có tính chất công
nghiệp, - chênh lệch đầu kỳ, cuối kỳ - giá trị mô hình tự chế cũng không cần
tính.
b) Tính giá trị của
sản phẩm đã liệt kê được theo giá cố định cụ, và giá cố định mới.
c) Tìm hệ số giữa giá
trị theo giá cũ và giá mới đã tính được. Dùng hệ số đó để điều chỉnh lại toàn
bộ chỉ tiêu giá trị tổng sản lượng, giá trị sản lượng hàng hóa năm 1970.
Ví dụ: Năm 1970 xí
nghiệp có số liệu theo giá cố định cũ như sau:
Giá trị tổng sản
lượng: 14500 nghìn đồng, chia ra
Quý I: 2.900 nghìn
Quý II: 3.490 nghìn
Quý III: 4.060 nghìn
Quý IV: 4.350 nghìn
Giá trị sản phẩm hàng
hóa: 13.200 nghìn đồng.
Cách tính lại toàn bộ
theo giá cố định mới như sau:
Đối chiếu với bảng
giá cố định mới, liệt kê các sản phẩm có giá mới và lập biểu tính đổi
Tên sản phẩm
|
Số lượng
|
Giá trị toàn bộ
(nghìn đồng)
|
Ghi chú
|
Theo giá cũ
|
Theo giá mới
|
Sản phẩm chủ yếu A
|
500 cái
|
4 000
|
3 800
|
|
Sản phẩm chủ yếu B
|
300 cái
|
3 000
|
2 600
|
Sản phẩm chủ yếu C
|
400 cái
|
5 800
|
5 000
|
Sản phẩm chủ yếu D
|
100 cái
|
|
|
không có giá cố
định mới
|
Sản phẩm phụ E
|
50 cái
|
600
|
400
|
|
Sản phẩm phụ F
|
|
|
|
không có giá cố
định mới
|
Công việc có tính
chất công nghiệp
|
|
|
|
không tính
|
Tổng cộng
|
|
13 400
|
11 800
|
|
Hệ số tính đổi = = 0,8806
Giá trị tổng sản
lượng năm 1970 tính theo giá cố định mới: 14500 nghìn x 0,8806 = 12768 nghìn
đồng.
Sản lượng hàng hóa
tính theo giá cố định mới: 13200 nghìn x 0,8806 = 11624 nghìn đồng. Tính các
quý theo giá cố định mới:
Quý I: 2900 x 0,8806
= 2554 nghìn đồng
Quý II: 3190 x
0,8806 = 2809 nghìn đồng
Quý III: 4060 x
0,8806 = 3575 nghìn đồng
Quý IV: 4350 x 0,8806
= 3831 nghìn đồng
Phương pháp tính lại
số liệu năm 1970 của cơ quan quản lý cấp trên (Bộ, các ngành, các
tỉnh).
Số liệu giả thiết của
ngành công nghiệp trong năm 1970 gồm 4 xí nghiệp cần được tính lại theo giá cố
định mới như sau;
Xí nghiệp A (ngành cơ khí, quốc
doanh trung ương)
Giá trị tổng sản
lượng năm 1970:
- 4500 nghìn đồng
(giá cố định cũ)
- 4200 nghìn đồng
(giá cố định mới)
Xí nghiệp B (ngành thực phẩm quốc
doanh trung ương)
Giá trị tổng sản
lượng năm 1970:
- 2500 nghìn đồng
(giá cũ)
- 2200 nghìn đồng
(giá mới)
Xí nghiệp C (ngành thực phẩm,
quốc doanh địa phương).
Giá trị tổng sản
lượng năm 1970.
- 1200 nghìn đồng (giá
cũ)
- 1450 nghìn đồng
(giá mới).
Xí nghiệp D (Ngành may mặc hợp
tác xã địa phương).
Giá trị tổng sản
lượng năm 1970:
- 220 nghìn đồng (giá
cũ)
- 275 nghìn đồng (giá
mới)
a) Bước thực hiện của
xí nghiệp cơ sở để tính đổi:
Xí nghiệp A tính hệ
số:
H =
Xí nghiệp B tính hệ
số:
H =
Xí nghiệp C tính hệ
số:
H =
Xí nghiệp D tính hệ
số:
H =
b) Bước tính đổi của
cơ quan Bộ quản lý 4 xí nghiệp trên:
Tính hệ số chung cho
toàn bộ:
H =
Cơ quan tổng hợp tính
hệ số cho nhóm A (xí nghiệp cơ khí).
Tính hệ số cho nhóm B
(gồm xí nghiệp B, C, D).
Tính hệ số cho công
nghiệp do trung ương quản lý (gồm 2 xí nghiệp A + B):
Tính hệ số cho công
nghiệp địa phương (gồm xí nghiệp C + D):
Cũng theo phương pháp
như trên, tính hệ số riêng cho từng ngành cơ khí, lương thực, may mặc, cho từng
thành phần kinh tế quốc doanh, hợp tác xã v.v…
Kết quả tính toán
tổng hợp lên biểu như sau:
GIÁ
TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG NĂM 1970 TÍNH THEO GIÁ CỐ ĐỊNH MỚI
(Đơn vị: nghìn đồng)
|
Năm 1970
|
Hệ số tính đổi
|
|
Theo giá năm 1959
|
Theo giá năm 1970
|
|
1
|
2
|
3 = 2/1
|
Xí nghiệp A
Xí nghiệp B
Xí nghiệp C
Xí nghiệp D
|
4500
2500
1200
220
|
4200
2200
1450
275
|
0,9333
0,8800
1,2083
1,250
|
Tổng cộng
|
8420
|
8125
|
0,9649
|
Phân theo tổ:
Nhóm A
Nhóm B
Trung ương quản lý
Địa phương quản lý
Ngành cơ khí
Ngành lương thực
Ngành may mặc
|
4500
3920
7000
1420
4500
3700
220
|
4200
3925
6400
1725
4200
3650
275
|
0,9333
1,0012
0,9142
1,2148
0,9333
0,9864
1,250
|
PHƯƠNG
PHÁP TÍNH ĐỔI SỐ LIỆU LỊCH SỬ TỪ NĂM 1969 VỀ TRƯỚC THEO GIÁ CỐ ĐỊNH MỚI
Mục đích chính của
việc đặt giá cố định là để loại trừ sự biến động của giá cả và phản ánh chính
xác sự biến động về khối lượng vật chất qua nhiều năm. Vì vậy các chỉ tiêu tính
theo giá cố định không có mục đích phản ánh sự hao phí lao động thực tế của
từng năm hiện tại, và không dùng để tính doanh thu, lỗ lãi như giá hiện hành,
nên không dùng trong công tác kế toán tài vụ, mà chỉ dùng để kiểm tra kế hoạch
về khối lượng vật chất tổng hợp, tính toán tốc độ phát triển cũng như biến động
về cơ cấu, tỷ trọng của khối lượng vật chất. Ý nghĩa của các chỉ tiêu tính bằng
giá cố định là ở chỉ số, tốc độ phát triển của nó qua các năm.
Xuất phát từ mục đích
và ý nghĩa trên, sau khi áp dụng bảng giá cố định mới. Tổng cục Thống kê quy
định những nguyên tắc chung để tính lại các số liệu cũ như sau:
1. Không tính đổi
toàn bộ số liệu cũ từ năm 1969 về trước theo giá cố định mới. Chỉ cần tính đổi
chỉ tiêu một số năm mốc trong trường hợp cần thiết.
2. Trong trường hợp
này dùng phương pháp hệ số thống nhất tính được trong năm 1970 để tính đổi
chung cho các năm.
3. Phương pháp dùng
hệ số tính đổi số liệu cũ như sau: “Lấy sản lượng toàn năm 1970 tính theo hai
loại giá cố định cũ và mới để tìm hệ số. Dùng hệ số đó nhân với số liệu cũ để
có số liệu tính đổi theo giá cố định mới”.
Hệ số H =
Hệ số H nhân với số
liệu theo giá cố định cũ
|
|
= Số liệu năm cũ
được tính theo giá cố định mới
|
Để đảm báo chính xác,
hệ số H phải tính đến 4 số lẻ. Theo hệ số của 4 xí nghiệp trên kia để tính:
Giá trị tổng sản
lượng năm 1965 (theo giá cố định cũ):
Xí nghiệp A = 4000
nghìn đồng; hệ số 0,9333
Xí nghiệp B = 2000
nghìn đồng; hệ số 0,8800
Xí nghiệp C = 1000
nghìn đồng; hệ số 2,2083
Xí nghiệp D = 200
nghìn đồng; hệ số 1,2500
Toàn ngành = 7200
nghìn đồng, hệ số 0,9649.
Xí nghiệp A tính đổi
số liệu năm 1965 theo giá cố định mới:
4000 x 0,9333 = 3733
nghìn đồng (giá mới)
Xí nghiệp B tính đổi
số liệu năm 1965 theo giá cố định mới:
2000 x 0,8800 = 1760
nghìn đồng (giá mới)
Xí nghiệp C tính đổi
số liệu năm 1965 theo giá cố định mới:
1000 x 2,2083 = 2208
nghìn đồng (giá mới)
Xí nghiệp D tính đổi
số liệu năm 1965 theo giá cố định mới:
200 x 1250 = 250 nghìn
đồng (giá mới)
Giá trị tổng sản
lượng của toàn ngành (bao gồm 4 xí nghiệp trên) năm 1965 tính đổi theo giá cố
định mới:
7200 x 0,9649 = 6947
nghìn đồng.
Chú ý: Lúc tính đổi
cho nhóm A, nhóm B, cho từng ngành, từng thành phần kinh tế, phải dùng hệ số đã
tính riêng cho từng loại phân tổ, không dùng hệ số chung để đảm bảo mức độ
chính xác về cơ cấu.
4. Các số tương đối về
chỉ số (tốc độ) phát triển tính theo giá cố định cũ, nay vẫn giữ nguyên không
cần phải tính lại, vì nếu có tính lại thì ở tử số và mẫu số đều dùng chung một
hệ số H nên kết quả số tương đối không bị ảnh hưởng.
Riêng năm 1970, năm
bản lề áp dụng hai bảng giá cố định cũ và mới, khi so với năm 1969 phải dùng
theo giá cũ, khi so với năm 1971 phải dùng theo giá mới để thống nhất giữa tử
số và mẫu số.
Khi tính chỉ số phát
triển định gốc của một năm dùng giá cố định mới so với năm dùng giá cố định cũ,
có thể áp dụng hai phương pháp sau đây:
a) Trực tiếp dùng
phương pháp tích của chỉ số liên hoàn để tính chỉ số định gốc.
b) Đổi số tuyệt đối
năm dùng giá cố định cũ ra giá cố định mới bằng phương pháp hệ số và so sánh
sau khi mẫu số và tử số đã thống nhất với giá mới.
Ví dụ:
Xí nghiệp cơ khí A có
số liệu giá trị tổng sản lượng:
- từ năm 1967 đến
1970 (giá cố định cũ),
- từ năm 1971 đến
1973 (giá cố định mới),
Sau khi tính lại năm
1970, tìm ra hệ số H là 0,9333, dùng hệ số trên để tính lại số liệu năm 1967,
1968, 1969 và lên biểu như sau:
GIÁ
TRỊ TỔNG SẢN LƯỢNG QUA CÁC NĂM
(xí nghiệp cơ khí A)
(Đơn vị: nghìn đồng)
|
Tính theo giá 1959
|
Tính theo giá 1970
|
Chỉ số phát triển %
|
Định gốc 1967 = 100
|
liên hoàn (năm sau
so năm trước)
|
1967
1968
1969
1970
1971
1972
1973
|
3500
3900
3200
4000
|
3266 (*)
3640 (*)
2986 (*)
3733
4200
4810
5291
|
110,0
111,4
91,4
114,3
128,8
147,2
162,0
|
100,0
111,4
82,0
125,0
112,5
114,5
110,0
|
(*) Số liệu đã được
tính lại theo hệ số H
Hệ số H tính trong
năm 1970
H =
Chỉ số phát triển:
111, 4%
Căn cứ vào kết quả
tính toán trên, có thể thấy được từ năm 1970 trở về trước các loại chỉ số tính
theo giá cố định cũ hoặc tính theo giá cố định mới đều giống nhau. Do đó không
cần phải thay đổi chỉ số cũ.
Khi tính chỉ số năm
1971 so với năm 1970 thì cả hai năm đều phải tính theo giá cố định mới.
Từ năm 1971 trở đi,
các loại chỉ số đều tính theo giá cố định mới.
Tóm lại, chỉ số phát
triển liên hoàn giá trị tổng sản lượng của xí nghiệp A được sắp xếp lại liên
tục qua các năm như sau:
(năm trước = 100)
1967
|
1968
|
1969
|
1970
|
1971
|
1972
|
1973
|
100
|
111,4
|
82,0
|
125,0
|
112,5
|
114,5
|
110,0
|
Khi
tính tốc độ phát triển của những năm áp dụng bảng giá cố định mới so với năm
gốc áp dụng bảng giá cố định cũ, có thể:
1. Trực tiếp dùng
phương pháp chỉ số liên hoàn để tính tốc độ phát triển định gốc.
Ví dụ: Tính tốc độ
phát triển năm 1973 so với năm 1968:
Phương pháp này trực
tiếp sử dụng chỉ số liên hoàn năm sau năm trước sẵn có, không phải tính đổi số
tuyệt đối năm cũ theo giá cố định mới.
2. Đổi số tuyệt đối
của năm gốc theo giá cố định mới rồi so sánh.
Năm 1968, giá trị
tổng sản lượng của xí nghiệp A theo giá cố định 1959 là 3900 nghìn đồng. Dùng
hệ số 0,9333 để tính đổi theo giá cố định mới:
3900 x 0,9333 = 3640
nghìn đồng
Tính tốc độ phát
triển định gốc:
Kết quả cũng như trên
song phải qua khâu tính hệ số và tính đổi phức tạp hơn.
5. Vì giữa bảng giá cố
định cũ và mới có sự khác nhau về giá cả nên kết cấu về giá trị công, nông
nghiệp cũng như tỷ trọng của một số ngành trong công nghiệp, trong nông nghiệp
sẽ có sự thay đổi. Nhưng vì cơ cấu và tỷ trọng của thời kỳ nào là do quan hệ về
hao phí lao động biểu thị bằng giá cả của thời kỳ ấy quyết định, nên khi áp
dụng bảng giá cố định mới, không thể dùng giá cố định mới để điều chỉnh lại cơ
cấu và tỷ trọng của các thời kỳ trước.
Vì vậy, Tổng cục
thống kê quy định:
a) Từ năm 1969 trở về
trước, cơ cấu và tỷ trọng vẫn giữ như cũ và được ghi chú là “tính theo giá cố
định năm 1959”.
b) Từ năm 1971 trở đi
cơ cấu và tỷ trọng tính theo giá cố định mới và ghi chú là “tính theo giá cố
định mới”.
c) Riêng năm bản lề
1970, cơ cấu và tỷ trọng được tính theo hai loại giá và được ghi cả ở phần tính
theo giá cố định năm 1959 và ở phần tính theo giá cố định năm 1970, mục đích để
nêu rõ trong năm chuyển tiếp, sự biến đổi về cơ cấu, tỷ trọng có chịu sự thay
đổi của giá cố định, nên lúc nghiên cứu phân tích cần chú ý.
Ví dụ: Số liệu của
hai nhóm A, B qua các năm áp dụng hai bảng giá cố định khác nhau, và cách trình
bày tỷ trọng như sau:
|
Giá trị tổng sản
lượng (1000đ)
|
Tỷ trọng %
|
|
Tổng số
|
Nhóm A
|
Nhóm B
|
Nhóm A
|
Nhóm B
|
|
Tính theo giá cố
định 1959
|
|
|
1967
1968
1969
1970
|
2000
1800
2200
2400
|
880
801
959,2
1080,0
|
1120
999
1240,8
1320
|
44,0
44,5
43,6
45,0
|
56,0
55,5
56,4
55,0
|
|
Tính theo giá cố
định 1970
|
|
|
1970
1971
1972
|
2160
2480
2620
|
107,2
1054,0
1126,6
|
1252,8
1426,0
1493,4
|
42,0
42,5
43,0
|
58,0
57,5
57,0
|
Có thể nhận xét,
trong năm 1970, tỷ trọng nhóm A tính theo giá cố định mới thấp hơn tỷ trọng
tính theo giá cố định cũ, ngược lại tỷ trọng nhóm B tính theo giá cố định mới
lại cao hơn tỷ trọng tính theo giá cố định cũ. Điều trên nêu rõ, không phải do
cơ cấu vật chất biến đổi mà do sự quy định về giá cả trong hai bảng giá cố định
có thay đổi, giá tư liệu sản xuất có hạ xuống, giá sản phẩm tiêu dùng tăng lên.
Trên đây là một số
quy định chung trong việc sử dụng bảng giá cố định mới và phương pháp tính lại
các số liệu cũ.
Trong lúc áp dụng,
các Bộ, các cơ quan quản lý và các đơn vị sản xuất trao đổi ý kiến cụ thể với
Tổng cục Thống kê để giải quyết các vấn đề tồn tại.
|
TỔNG CỤC TRƯỞNG
TỔNG CỤC THỐNG KÊ
Nguyễn Đức Dương
|