HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 362-CP
|
Hà Nội , ngày 29
tháng 11 năm 1980
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ SỐ 362-CP NGÀY 29 THÁNG 11 NĂM 1980 VỀ VIỆC HỢP TÁC SỬ DỤNG LAO
ĐỘNG VỚI CÁC NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
Những năm vừa qua, theo kế hoạch
phát triển kinh tế và văn hoá, các ngành các cấp đã có nhiều cố gắng phát triển
sản xuất, mở mang các vùng kinh tế mới, phân bố lại sức lao động, sắp xếp việc làm
cho hàng triệu người; nạn thất nghiệp ở các thành thị miền Nam đã từng bước được
giải quyết; hàng chục vạn thanh niên được đào tạo nghề nghiệp ở trong và ngoài
nước.
Trong kế hoạch phát triển kinh tế,
văn hoá 5 năm sắp tới, một nhiệm vụ hết sức nặng nề và cấp bách được đặt ra là
phải tiếp tục phát huy tiềm năng to lớn về sức lao động của nước ta. Các ngành
các cấp đều phải có những nỗ lực rất lớn trong công việc này, nhưng với cơ sở vật
chất và kỹ thuật có hạn của một nước chậm phát triển trong bước đi ban đầu của
thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, tiềm lực lao động rất to lớn của đất
nước chưa phải là sẽ được tận dụng hết được trong một vài kế hoạch 5 năm.
Trong lúc đó, các nước thành
viên trong Hội đồng tương trợ kinh tế, nhất là Liên Xô và các nước xã hội chủ
nghĩa anh em đang xây dựng chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa xã hội phát triển, lại
thiếu lao động. Trước tình hình nói trên, vấn đề hợp tác giữa nước ta và các nước
xã hội chủ nghĩa về việc sử dụng lao động được đặt thành vấn đề bức thiết cho cả
nước ta và các nước anh em. Thông qua việc hợp tác này, ta có thể giải quyết việc
làm và đào tạo nghề nghiệp cho một bộ phận thanh niên ta trong điều kiện các cơ
sở kinh tế trong nước chưa thu hút được hết.
Xuất phát từ lợi ích trên đây, Hội
đồng Chính phủ trong phiên họp của Thường vụ Hội đồng Chính phủ ngày 8 tháng 8
năm 1980, sau khi nghe Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Lao động báo cáo tình
hình đàm phán và kỹ kết hiệp định về hợp tác sử dụng lao động nước ta với một số
nước xã hội chủ nghĩa đã quyết định:
I. NGUYÊN TẮC VÀ MỤC ĐÍCH
Nước ta mở rộng việc hợp tác sử
dụng lao động với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác trên nguyên
tắc hai bên cùng có lợi, bằng nhiều hình thức và nhằm các mục đích sau đây:
1. Giải quyết công ăn việc làm
cho một bộ phận thanh niên ta.
2. Thông qua hợp tác sử dụng lao
động, nhờ các nước anh em đào tạo giúp ta một đội ngũ lao động có tay nghề vững,
đáp ứng được yêu cầu phát triển nền kinh tế nước ta sau này.
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ TIÊU CHUẨN
TUYỂN CHỌN
1. Quân nhân xuất ngũ hàng năm.
2. Học sinh tốt nghiệp các trường
chuyên nghiệp chưa bố trí sử dụng hết. Những học sinh tốt nghiệp các trường đào
tạo ở ngoài nước (kể cả trường đại học và trường dạy nghề) nếu trong nước chưa
có yêu cầu thì cũng bố trí ở lại làm việc ở các nước để bồi dưỡng nâng cao
trình độ.
3. Tuyển một tỷ lệ cần thiết những
công nhân, cán bộ đang ở trong biên chế để làm nòng cốt. Khi tuyển cần tính
toán chặt chẽ, không được để ảnh hưởng đến sản xuất của các xí nghiệp, (trước hết
tuyển người ở những xí nghiệp do sắp xếp lại sản xuất mà thừa công nhân, cán bộ
chưa có yêu cầu sử dụng trong những năm trước mắt).
4. Thanh niên chưa có việc làm,
học sinh trong độ tuổi lao động đã thôi học ở các trường phổ thông ở các thành
phố, thị xã và những vùng đông dân, bình quân ruộng đất thấp, trước hết là các
thành phố lớn như Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp
tập trung. Việc tuyển chọn trước hết là lấy trong số con liệt sĩ, cán bộ, công
nhân, viên chức.
5. Dành một tỉ lệ cần thiết nhằm
thực hiện chính sách đối với một số đối tượng ở các địa phương.
Trong việc tuyển chọn cần chú ý
có tỷ lệ nam, nữ thích đáng tuỳ theo yêu cầu bố trí công việc đối với từng loại
ngành nghề.
6. Về tiêu chuẩn tuyển chọn những
người đưa đi làm việc ở nước ngoài phải là những người tốt, không có tiền án,
có đủ sức khoẻ, và trình độ văn hoá đáp ứng yêu cầu về nghề nghiệp mà nước sử dụng
lao động đề xuất.
Việc tuyển chọn phải chặt chẽ, hết
sức phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn tệ móc ngoặc hối lộ..., đưa những người xấu
hoặc không đủ tiêu chuẩn đi làm việc ở các nước anh em.
III. VỀ SỐ LƯỢNG VÀ THỜI GIAN
LÀM VIỆC
Hiện nay, qua đàm phán ta đã ký
hiệp định chính thức hoặc thoả thuận bước đầu về số lượng lao động đưa sang làm
việc tại một số nước anh em, trước mắt trong thời gian từ năm 1980 đến 1985, ta
cần cố gắng đưa người sang làm việc ở các nước theo số lượng đã thoả thuận, đồng
thời trong quá trình thực hiện, cần tìm hiểu thêm nhu cầu của các nước, và tìm
ra nhiều hình thức hợp tác thích hợp đáp ứng đầy đủ hơn nữa số lượng lao động
mà các nước anh em yêu cầu.
Trong trường hợp có thể thực hiện
nhiều hơn số trước đây đã thoả thuận với các nước anh em, Uỷ ban Kế hoạch Nhà
nước, Bộ Lao động cần cân đối kỹ các mặt, và báo cáo Thủ tướng Chính phủ để quyết
định bổ sung trong kế hoạch hàng năm.
Về thời gian lưu lại làm việc ở
mỗi nước, phải tuỳ theo yêu cầu của nước sử dụng lao động và tình hình phát triển
kinh tế của ta mà xác định cho sát.
IV. VỀ NGÀNH, NGHỀ
Nước ta gửi người đi làm việc ở
các nước xã hội chủ nghĩa vừa là để đáp ứng yêu cầu của bạn, vừa là để đáp ứng
yêu cầu trước mắt và đạt tới những lợi ích lâu dài của ta. Vì vậy việc sắp xếp
thanh niên ta vào làm việc ở ngành nghề nào, ta cần khéo kết hợp yêu cầu của ta
với việc đáp ứng tích cực yêu cầu cuả các nước anh em. Thông qua sử dụng lao động,
nước bạn bè sẽ đào tạo nghề nghiệp cho thanh niên ta. Các ngành có liên quan của
ta cần phối hợp chặt chẽ, nắm lại tình hình và cố gắng tìm hiểu kỹ hơn khả năng
và sở trường của từng nước anh em về ngành, nghề kỹ thuật cụ thể để có kế hoạch
toàn diện, kết hợp chặt chẽ các hình thức gửi người đi đào tạo ở các trường đại
học, trường dạy nghề, hợp tác sản xuất đối với từng sản phẩm ... với việc hợp
tác sử dụng lao động này để đặt vấn đề với từng nước anh em giúp đỡ ta đào tạo
công nhân, cán bộ, phù hợp với yêu cầu xây dựng các ngành công nghiệp mới trong
từng thời kỳ kế hoạch sau này.
Về hình thức bố trí lao động làm
việc ở các nước thì tuỳ các nước anh em sắp xếp, có thể bố trí người lao động của
ta cùng làm ở một tổ sản xuất, một ca sản xuất, một dây chuyền công nghệ, một
phân xưởng, một cửa hàng, một bệnh viện... hoặc có thể xen ghép vào các đơn vị
sẵn có, ta không đòi hỏi phải bố trí theo yêu cầu của ta, gây khó khăn cho đơn
vị sử dụng lao động của nước anh em.
V. VỀ CHÍNH SÁCH, CHẾ ĐỘ
a. Về chế độ
lương và phụ cấp cho người lao động:
Việc đưa người lao động Việt Nam
đi làm việc ở các nước xã hội chủ nghĩa vừa là xuất phát từ lợi ích lâu dài của
đất nước và lợi ích trước mắt của người lao động, vừa là nhiệm vụ hợp tác quốc
tế. Các nước anh em đã thoả thuận trả lương, bảo hiểm xã hội và các khoản phụ cấp
khác cho người lao động Việt Nam sang làm việc ở các nước đó giống như hoặc
tương đương thu nhập của người lao động nước anh em làm cùng ngành nghề. Ta
không đòi hỏi chính sáng đãi ngộ của nước này đối với người lao động của ta phải
giống như nước khác vì mỗi nước có hoàn cảnh và chính sách khác nhau. Các cấp,
các ngành cần làm cho những người đi lao động và gia đình họ hiểu rõ chủ
trương, chính sách của Chính phủ ta cũng như hiểu rõ hoàn cảnh và yêu cầu của
các nước anh em trong cộng đồng kinh tế xã hội chủ nghĩa để có thái độ cho đúng
đắn. Các ngành hữu quan của ta cần tiếp tục làm việc để ký hiệp định chính thức
với Liên Xô và một số nước anh em khác trong thời gian sớm nhất, không nên tính
toán chi li, so sánh thiệt hơn giữa nước này với nước khác, làm ảnh hưởng đến mục
đích lớn của việc hợp tác.
b. Về trách nhiệm của người lao
động:
Người lao động có trách nhiệm:
1. Thực hiện nghiêm chỉnh hiệp định
về hợp tác lao động mà Chính phủ ta đã ký với Chính phủ các nước anh em; thực
hiện nghiêm chỉnh hợp đồng lao động mà người lao động đã kỹ với xí nghiệp nước
anh em; thực hiện nghiêm chỉnh các điều cam kết mà người lao động đã ký với cơ
quan lao động trong nước.
2. Phải làm việc tốt, học tập tốt,
tôn trọng luật pháp của nước anh em, giữ quan hệ đoàn kết và hữu nghị với nhân
dân nước anh em, thường xuyên rèn luyện phẩm chất đạo đức xã hội chủ nghĩa, giữ
vững và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng.
3. Sau khi trở về Tổ Quốc, phải
nghiêm chỉnh chấp hành sự phân công của các cơ quan Nhà nước.
4. Hàng tháng, người lao động
làm việc ở nước ngoài tuỳ theo mức thu nhập và điều kiện sinh hoạt cụ thể ở mỗi
nước, có nhiệm vụ trích nộp từ 10 đến 15% thu nhập cơ bản (gồm tiền lương chính
và một số khoản phụ cấp thường xuyên nếu có) bằng tiền của nước nhận lao động
đóng góp cho Nhà nước để bù đắp chi phí về việc tổ chức đưa đón người lao động,
đi, về, giải quyết những quyền lợi sau này và góp phần vào sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc. Trong thời gian học nghề, học ngoại ngữ hoặc bổ túc nghề
nghiệp, thời gian được về nước nghỉ phép hoặc những tháng vì lý do khách quan
nào đó không thuộc về khuyết điểm của người lao động mà tiền thu nhập chỉ bằng
mức lương tối thiểu của nước nhận lao động thì người lao động không phải nộp
khoản này cho Nhà nước.
5. Nếu phạm lỗi bị thi hành kỷ
luật bằng hình thức buộc phải về nước trước khi hoàn thành nhiệm vụ theo hợp đồng,
thì phải bồi thường một phần phí tổn theo chế độ của Nhà nước; nếu có lỗi nặng
còn bị xử lý theo kỷ luật hoặc pháp luật Nhà nước.
c. Về quyền lợi
của người lao động làm việc ở nước ngoài:
1. Được hưởng các chế độ tiền
lương, tiền thưởng, phụ cấp, trợ cấp (nếu có) cũng như các quyền lợi khác ghi
trong hiệp định ký giữa Chính phủ ta và Chính phủ từng nước nhận lao động.
2. Cán bộ, công nhân trong biên
chế Nhà nước (kể cả những cán bộ, công nhân, những quân nhân xuất ngũ và thanh
niên xung phong đủ tiêu chuẩn chuyển ngành được cử đi học rồi được chọn đi làm
việc ở nước ngoài) được tính thời gian làm việc ở nước ngoài vào thời gian công
tác liên tục và được Nhà nước đối đãi với gia đình như đối với gia đình cán bộ,
công nhân đang làm việc ở trong nước.
3. Học sinh tốt nghiệp các trường
chuyên nghiệp trong nước và nước ngoài, quân nhân xuất ngũ, thành niên thôi học
phổ thông được tuyển chọn làm việc ở nước ngoài sau khi hoàn thành nhiệm vụ trở
về nước, Nhà nước sẽ căn cứ kết quả lao động, học tập, đạo đức của từng người
mà xét tuyển dụng vào xí nghiệp, cơ quan Nhà nước theo chế độ hiện hành. Thời
gian làm việc ở nước ngoài (và thời gian phục vụ trong quân đội hoặc thanh niên
xung phong, nếu có) của những người đó được tính vào thời gian công tác liên tục
khi xét giải quyết các chế độ chính sách đãi ngộ sau này.
4. Được phép gửi hàng hoá hoặc gửi
tiền về giúp đỡ gia đình ở trong nước. Nếu gửi tiền vào quỹ tiết kiệm của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam thì được hưởng chế độ khuyến khích theo quy định của
Ngân hàng.
5. Được giải quyết các chế độ
theo quy định trong điểm 4, 5, 6 của Thông tư số 204-TTg ngày 26 tháng 6 năm
1980. Thông tư này áp dụng cho tất cả các đối tượng được cử đi làm việc ở nước
anh em, không kể ở trong hay ngoài biên chế.
VI. TỔ CHỨC THỰC HIỆN
1. Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước có
trách nhiệm chủ trì cùng Bộ Lao động Uỷ ban khoa học và kỹ thuật Nhà nước bàn bạc
với các ngành có liên quan căn cứ vào nhu cầu lao động và khả năng tiếp nhận của
từng nước để xác định cụ thể nội dung hợp tác sử dụng lao động với từng nước
anh em về số lượng lao động và ngành nghề. Cần kết hợp chặt chẽ kế hoạch gửi học
sinh đi đào tạo ở các trường đại học, trường dạy nghề, với kế hoạch hợp tác sử
dụng lao động để đề ra một kế hoạch toàn diện phù hợp với nhu cầu và khả năng của
từng nước và phù hợp với kế hoạch phát triển kinh tế của nước ta trong từng thời
kỳ. Cần có kế hoạch phân phối và sử dụng những người lao động khi họ hết hạn
làm việc ở nước ngoài và trở về nước. Kế hoạch hợp tác sử dụng lao động phải được
coi là một bộ phận quan trọng trong kế hoạch hàng năm và 5 năm cũng như trong kế
hoạch hợp tác toàn diện giữa nước ta với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa
anh em khác.
Căn cứ vào dự kiến kế hoạch đã
trao đổi với các ngành liên quan và trong khuôn khổ phối hợp với kế hoạch hợp
tác kinh tế hai bên và nhiều bên trong Hội đồng tương trợ kinh tế, Uỷ ban Kế hoạch
Nhà nước làm việc với cơ quan kế hoạch của các nước anh em để xác định kế hoạch
hợp tác sử dụng lao động về số lượng, ngành nghề trong từng thời kỳ nhất định
và các điều kiện thực hiện trình Hội đồng Chính phủ quyết định.
Với sự tham gia của Bộ Lao động,
Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước thông báo việc phân bổ chỉ tiêu tuyển chọn người lao động
gửi đi hàng năm sang từng nước để các ngành, các địa phương thực hiện.
2. Bộ Lao động là cơ quan tổ chức
thực hiện công việc gửi người đi lao động ở nước ngoài có nhiệm vụ:
- Thay mặt Chính phủ ta bàn bạc
và ký kết hiệp định hợp tác sử dụng lao động với các nước anh em và là cơ quan
chịu trách nhiệm tổ chức việc thực hiện hiệp định đã ký kết;
- Căn cứ vào chủ trương của
Chính phủ, quy định cụ thể tiêu chuẩn, cách thức tuyển chọn và hướng dẫn, kiểm
tra việc tuyển chọn lao động ở các ngành, các địa phương; có kế hoạch giáo dục
và tổ chức việc đưa người đi lao động ở từng nước; tổ chức quản lý người lao động
trong thời gian làm việc ở nước ngoài; tiếp nhận và thực hiện kế hoạch phân phối
người lao động hết hạn trở về nước; thi hành chính sách, chế độ đối với người
lao động và gia đình họ trong thời gian họ làm việc ở nước ngoài;
- Căn cứ vào chỉ tiêu kế hoạch hợp
tác sử dụng lao động hàng năm và 5 năm, lập kế hoạch thực hiện hàng năm và 5
năm về việc đưa người đi làm việc ở nước ngoài và tiếp nhận người lao động ở nước
ngoài về (kể cả kế hoạch thu và chi ngoại tệ), đề ra các yêu cầu về vốn, thiết
bị, vật tư, vật phẩm tiêu dùng và cơ sở vật chất để đưa vào kế hoạch chung của
Nhà nước trình Chính phủ xét duyệt và giao cho các ngành và các địa phương thực
hiện.
3. Các Bộ, các địa phương có người
gửi đi làm việc ở nước ngoài theo kế hoạch phân bổ của Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước
và theo sự hướng dẫn của Bộ Lao động, có trách nhiệm tuyển chọn đủ số lượng, bảo
đảm đúng tiêu chuẩn, chính sách quy định; tổ chức học tập, bồi dưỡng người lao
động trước khi đi; tổ chức tiếp nhận và bố trí việc làm cho người lao động hết
hạn trở về nước theo kế hoạch của Nhà nước.
4. Tuỳ theo số lượng người lao động
được gửi đi nhiều ít khác nhau, theo hướng dẫn của Bộ Lao động, các Bộ, các địa
phương được tổ chức các trạm đưa đón lao động. Các Bộ, các địa phương có số lượng
người đi làm việc ở các nước anh em không nhiều thì các trạm đưa đón lao động của
Bộ Lao động phụ trách.
5. Tổ chức biên chế và chi phí
phục vụ việc đưa đón lao động, chi phí cho bộ máy quản lý, phương tiện làm việc
kể cả bộ máy quản lý lao động ở nước ngoài, tính vào kinh phí sự nghiệp hợp tác
sử dụng lao động của Nhà nước. Bộ Lao động bàn với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước, Bộ
Tài chính và các cơ quan có liên quan để hướng dẫn các ngành, các địa phương thực
hiện.
6. Các Bộ, các ngành có liên
quan như Ngoại giao, Nội vụ, Y tế, Nội thương, Lương thực và thực phẩm, Tài
chính, Ngân hàng, Giao thông vận tải, Hàng không dân dụng... tuỳ theo chức năng
của mình phải có kế hoạch cụ thể phối hợp chặt chẽ với Bộ Lao động phục vụ chu
đáo cho kế hoạch tuyển chọn và đưa người sang lao động ở các nước anh em, bảo đảm
thực hiện đúng các hiệp định hợp tác sử dụng lao động đã ký kết, phục vụ chu
đáo việc đón tiếp người lao động khi họ trở về nước.
7. Hội đồng Chính phủ yêu cầu
các đoàn thể nhân dân: Tổng công đoàn Việt Nam, Trung ương Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam có kế hoạch tham gia tích cực
vào việc tuyển chọn và quản lý người đi làm việc ở nước ngoài, giáo dục nam nữ
thanh niên có nhận thức đúng đắn để làm tốt nhiệm vụ lao động, tích cực trau dồi
nghề nghiệp, trao dồi đạo đức, tư cách, tác phong khi làm việc ở nước anh em và
làm tròn nhiệm vụ khi trở về xây dựng Tổ Quốc.
8. Thủ trưởng các Bộ, các cơ
quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân
tỉnh , thành phố và đặc khu trực thuộc Trung ương có trách nhiệm chỉ đạo việc
thực hiện Nghị quyết này.
Bộ Lao động hướng dẫn theo dõi
việc thực hiện Nghị quyết này và báo cáo định kỳ lên Hội đồng Chính phủ.
Nghị quyết này thay thế Quyết định
số 46-CP ngày 11 tháng 2 năm 1980 của Hội đồng Chính phủ.