|
Bản dịch này thuộc quyền sở hữu của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT. Mọi hành vi sao chép, đăng tải lại mà không có sự đồng ý của
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là vi phạm pháp luật về Sở hữu trí tuệ.
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT has the copyright on this translation. Copying or reposting it without the consent of
THƯ VIỆN PHÁP LUẬT is a violation against the Law on Intellectual Property.
X
CÁC NỘI DUNG ĐƯỢC SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Các nội dung của VB này được VB khác thay đổi, hướng dẫn sẽ được làm nổi bật bằng
các màu sắc:
: Sửa đổi, thay thế,
hủy bỏ
Click vào phần bôi vàng để xem chi tiết.
|
|
|
Đang tải văn bản...
Số hiệu:
|
99-HĐBT
|
|
Loại văn bản:
|
Nghị quyết
|
Nơi ban hành:
|
Hội đồng Bộ trưởng
|
|
Người ký:
|
Tố Hữu
|
Ngày ban hành:
|
01/06/1982
|
|
Ngày hiệu lực:
|
Đã biết
|
Ngày công báo:
|
Đã biết
|
|
Số công báo:
|
Đã biết
|
|
Tình trạng:
|
Đã biết
|
HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG
********
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 99-HĐBT
|
Hà Nội, ngày 01
tháng 6 năm 1982
|
NGHỊ QUYẾT
CỦA HỘI ĐỒNG BỘ TRƯỞNG SỐ 99-HĐBT NGÀY 1 THÁNG 6 NĂM 1982 VỀ
PHƯƠNG HƯỚNG NHIỆM VỤ, CHỦ TRƯƠNG, BIỆN PHÁP LỚN NHẰM GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LƯƠNG
THỰC CỦA CẢ NƯỚC TRONG THỜI GIAN TỚI
I
Lương thực
là một vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đối với sản xuất, xây dựng, chiến đấu
và đời sống. Đây cũng là một vấn đề mà trước mắt chúng ta đang gặp khó khăn lớn,
nhất là cân đối lương thực trong khu vực Nhà nước ở miền Bắc, đòi hỏi phải có
những biện pháp tích cực nhất để giải quyết.
Chỉ thị số 120-CT/TƯ ngày
26-10-1981 của Bộ Chính trị đã chỉ rõ: "để chủ động trước mọi tình huống,
phải có một sự chuyển biến sâu sắc, căn bản trong các ngành, các cấp, trong cán
bộ, đảng viên và nhân dân nhằm phấn đấu tự lực giải quyết vấn đề lương thực của
cả nước bằng lực lượng trong nước, trên cơ sở đẩy mạnh sản xuất; tăng cường huy
động nắm chắc tuyệt đại bộ phận lương thực hàng hoá trong tay Nhà nước; điều
hoà lực lượng kịp thời giữa nơi thừa và nơi thiếu; quản lý chặt chẽ việc phân
phối tiêu dùng trên tinh thần triệt để tiết kiệm, trong phạm vi khả năng thực tế
về sản xuất và huy động trong nước, nhất thiết không ỷ lại vào bên ngoài".
Trong mấy năm qua, chúng ta đã ra sức phấn đấu theo hướng đó
và thực tế đã rút dần được mức nhập khẩu lương thực từ gần 2 triệu tấn năm
1979, xuống còn trên nửa triệu tấn năm 1981.
Với tiềm năng to lớn của cả nước về lao động và đất đai, với
ưu thế của một nước nông nghiệp nhiệt đới còn nhiều khả năng hiện thực về thâm
canh năng suất và tăng diện tích cả lúa và màu, các ngành, các cấp phải phát
huy những thành tích và kinh nghiệm tốt đã thu được trong thời gian qua, kiên
quyết vươn lên tự lực giải quyết vững chắc vấn đề lương thực, thực phẩm của cả
nước, nhất thiết không được ỷ lại trông chờ vào bên ngoài.
II
Theo phương hướng cơ bản trên đây Uỷ
ban Kế hoạch Nhà nước phải cùng các ngành, các địa phương tính toán kỹ các mặt
sản xuất, huy động, phân phối, tiêu dùng, thực hiện cân đối lương thực, thực phẩm
trên địa bàn từng huyện và trong từng tỉnh, vừa bảo đảm nhu cầu hợp lý của toàn
bộ dân cư ở địa phương, vừa bảo đảm kế hoạch giao nộp hàng năm và từng vụ cho
trung ương để đáp ứng nhu cầu của các lực lượng vũ trang, các thành phố lớn và
khu công nghiệp tập trung, hỗ trợ cho những vùng nông thôn mất mùa và tăng dần
dự trữ của cả nước.
Phải luôn luôn gắn lương thực với thực phẩm để chăm lo tốt
hơn bữa ăn của nhân dân; về lương thực, phải coi trọng cả lúa và màu; về thực
phẩm, phải quan tâm trước hết các loại rau, đậu (nhất là đậu tương), và hết sức
chú ý đẩy mạnh chế biến hoa màu và thực phẩm.
Phải căn cứ điều kiện kinh tế cụ thể của từng vùng, xác định
phương hướng và kế hoạch sản xuất các loại lương thực, thực phẩm cho thích hợp
để giải quyết cơ cấu bữa ăn tại chỗ là chủ yếu (kể cả đối với lực lượng vũ
trang ở nơi có điều kiện); thiếu gạo thì ăn thêm rau; thiếu lượng thực thì sản
xuất thêm các loại rau quả và thực phẩm để bù vào. Tập trung sức giải quyết tốt
vấn đề lương thực, thực phẩm, đồng thời vẫn phải chăm lo phát triển nông nghiệp
toàn diện, chú trọng các vùng tập trung trồng cây công nghiệp, cây dược liệu, cây
ăn quả theo quy hoạch và kế hoạch Nhà nước. Ngoài lực lượng sản xuất chủ yếu là
nông dân, cần động viên và đặt rõ trách nhiệm cho các tầng lớp dân cư khác, kể
cả các lực lượng vũ trang, công nhân, viên chức, học sinh ở bất cứ nơi nào có
điều kiện đều phải tham gia sản xuất lương thực, thực phẩm để tự giải quyết một
phần nhu cầu của mình.
Mục tiêu phấn đấu cụ thể đề ra cho từng loại tỉnh, thành phố
như sau:
- Những tỉnh trọng điểm lúa của cả nước (đồng bằng sông Cửu
Long và đồng bằng sông Hồng), ngoài phần sản xuất đủ bảo đảm các nhu cầu ở địa
phương (kể cả các cơ quan, xí nghiệp và đơn vị của Trung ương đóng tại địa
phương), và có dự trữ cần thiết, phải đẩy mạnh sản xuất và huy động lương thực,
thực phẩm để giao nộp cho trung ương với số lượng ngày càng nhiều hơn, trước mắt
là đạt và vượt mức chỉ tiêu kế hoạch được giao từng vụ và cả năm 1982.
- Những tỉnh trước đây chỉ sản xuất đủ dùng (như các tỉnh
duyên hải miền Trung và Tây Nguyên) nay phải vươn lên để có phần đóng góp cho
Trung ương và xây dựng dự trữ tại địa phương.
- Những tỉnh trước đây hàng năm vẫn sản xuất không đủ ăn,
nay phải vươn lên tự giải quyết ít nhất là phần nhu cầu của địa phương, trung
ương chỉ lo cho nhu cầu của lực lượng vũ trang chủ lực.
- Những thành phố và khu công nghiệp tập trung được Trung
ương tiếp trợ, một mặt phải quản lý chặt chẽ việc phân phối tiêu dùng, mặt khác
phải có kế hoạch và biện pháp thực hiện thâm canh, tăng năng suất và tăng vụ
trên toàn bộ diện tích trồng lương thực, thực phẩm ở địa phương, tổ chức, hướng
dẫn giúp đỡ những người phi nông nghiệp (nhất là ở ngoại thành, ngoại thị) tham
gia sản xuất lương thực, thực phẩm với mức độ phù hợp với điều kiện thực tế của
từng nơi, để giảm bớt phần trung ương phải điều từ nơi xa tới.
III
NHIỆM
VỤ, MỤC TIÊU PHẤN ĐẤU VÀ CHỦ TRƯƠNG
BIỆN PHÁP CỤ THỂ
A. VỀ SẢN
XUẤT
Năm 1982, phải thực hiện đầy đủ
các chủ trương, biện pháp phát triển nông nghiệp 1982 mà Hội nghị Trung ương lần
thứ 11 (khoá 4) và Quốc hội khoá 7, kỳ hợp thứ 2 đã đề ra nhằm đạt và vượt chỉ
tiêu tổng sản lượng lương thực là 16 triệu tấn, quy thóc (trong đó riêng thóc
13 triệu tấn).
Trước mắt, cần hết sức quan tâm
giải quyết mấy yêu cầu chính sau đây:
- Bảo đảm cung ứng đủ và kịp thời
vụ xăng, dầu, nhớt cho các khâu làm đất, bơm tưới, xay xát, vận chuyển lương thực,
chú trọng những địa bàn có nhiều diện tích cao sản, có khả năng tăng vụ, khai
hoang mở rộng diện tích.
- Tranh thủ tiếp nhận đủ và đúng
thời hạn các loại phân hoá học nhập khẩu, đi đôi với đẩy mạnh sản xuất phân lân
trong nước; khắc phục mọi khó khăn tổ chức vận chuyển nhanh về các địa phương
và cơ sở để phục vụ kịp thời vụ.
- Tìm mọi cách nhập khẩu và sản
xuất thêm thuốc trừ sâu bệnh cho lúa và các loại hoa màu, cây công nghiệp, cây
thực phẩm chủ yếu.
- Chỉ đạo thật chặt chẽ công tác
chống hạn và chống bão lũ, lụt, úng trong những tháng tới.
B. VỀ HUY ĐỘNG
Cần đạt cho được kế hoạch huy động
lương thực năm 1982 (tính theo năm lương thực) từ 2,8 triệu tấn đến 3 triệu tấn
quy thóc (miền Bắc từ 1 triệu đến 1,1 triệu tấn, các tỉnh duyên hải miền Trung
và Tây Nguyên 35 vạn tấn; các tỉnh thuộc Nam bộ cũ từ 1,4 triệu đến 1,5 triệu tấn).
Phải vận dụng đồng bộ các biện
pháp kinh tế, hành chính và giáo dục, lấy giáo dục vận động chính trị kết hợp với
các biện pháp kinh tế là chính, đồng thời sử dụng đúng mức biện pháp hành chính
đối với những người cố tình không làm nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước.
1. Thực hiện đúng chính sách ổn
định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm 1981 - 1985 đối với các hợp tác xã nông
nghiệp, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân trong cả nước.
Đối với các tỉnh miền Bắc, mức
nghĩa vụ ổn định theo Quyết định số 126-TTg ngày 23-4-1980 của Thủ tướng Chính
phủ. Đối với các tỉnh duyên hải miền Trung và Tây Nguyên, theo Quyết định số
226-TTg ngày 12-7-1980 của Thủ tướng Chính phủ. Riêng đối với các tỉnh thuộc
Nam Bộ cũ, Bộ trưởng Bộ Lương thực căn cứ vào mức đã ghi trong Quyết định số
226-TTg, vào kết quả thực tế đã đạt được trong năm lương thực 1981, và trao đổi
thêm với chủ tịch các tỉnh, thành phố để đề nghị Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng điều
chỉnh hợp lý mức giao cho một số tỉnh áp dụng từ năm 1982 đến năm 1985.
Mức nghĩa vụ ổn định nói trên
bao gồm thuế nông nghiệp thu theo đúng điều lệ và mức bán trong nghĩa vụ.
Về thuế nông nghiệp, Bộ Tài
chính cần gấp rút hoàn chỉnh dự thảo điều lệ thuế nông nghiệp mới trình Bộ
Chính trị xét và Quốc hội phê chuẩn trong tháng 6 năm 1982 để có thể triển khai
thực hiện bắt đầu từ vụ mùa 1982. Trước mắt, cần đôn đốc việc thu cho đủ thuế
ghi thu năm nay và nợ thuế các năm trước còn lại, nhất thiết không để khê đọng
thuế; nơi nào mất mùa nặng thì xét miễn giảm kịp thời, đúng chính sách.
Mua trong nghĩa vụ phải được thực
hiện bằng hợp đồng kinh tế hai chiều, theo giá chỉ đạo của Nhà nước. Quỹ vật
tư, hàng hoá dành cho thu mua lương thực phải được kế hoạch hoá từ Trung ương đến
tỉnh, đến huyện. Tại cấp huyện, ngành lương thực kết hợp với các cơ quan cung ứng
vật tư hàng hoá, ký hợp đồng từng vụ hay cả năm (có chia từng vụ) với các đơn vị
sản xuất tập thể và hộ nông dân, bảo đảm cung ứng kịp thời vụ xăng dầu, phân
bón, thuốc trừ sâu và dịch vụ cơ giới (làm đất, bơm tưới, tuốt lúa, xay xát...)
theo yêu cầu hợp lý của người sản xuất và khả năng thực tế của Nhà nước. Đơn vị
và người sản xuất nào có điều kiện thì thanh toán ngay; nếu thiếu vốn thì Ngân
hàng Nhà nước cho vay vốn thanh toán số vật tư, hàng hoá được cung ứng, đến mùa
sẽ trả. Các đơn vị tập thể và hộ nông dân, đến vụ thu hoạch, ngoài việc nộp đủ
thuế, trả nợ đủ, có trách nhiệm bán lương thực cho Nhà nước theo hợp đồng và
theo mức nghĩa vụ ổn định được Uỷ ban nhân dân huyện giao.
Trường hợp bị thiên tai, Uỷ ban
nhân dân xã báo cáo lên Uỷ ban nhân dân huyện đề nghị cho miễn giảm thuế theo
chính sách và điều chỉnh hợp lý mức bán trong nghĩa vụ cho từng đơn vị.
Địa phương nào đến nay chưa thực
hiện hợp đồng hai chiều thì phải kiên quyết làm bắt đầu từ vụ hè thu và vụ mùa
1982. Nơi nào vừa qua ký kết hợp đồng hai chiếu nhưng chưa thanh toán thì nay
phải thanh toán sòng phẳng giữa hai bên. Ở một số địa phương đã mua lúa ký gửi ở
gia đình nông dân thì nay phải thu đủ số lúa đó.
2. Các tổ chức dịch vụ cơ giới của
quốc doanh (các trạm máy cày, các trạm máy bơm, các cơ sở tuốt lúa, xay xát...)
phục vụ cho các đơn vị sản xuất tập thể và hộ nông dân trồng lương thực, từ này
mức giá Nhà nước quy định, chỉ lấy công bằng tiền ở những nơi sản xuất thực tế
thường vẫn chưa đủ ăn. Những tổ chức dịch vụ cơ giới của các tập đoàn lấy công
của nông dân bằng lúa chỉ được giữ lại đủ chi dùng trong gia đình, còn phải bán
cho Nhà nước theo giá chỉ đạo thu mua (nếu được cung cấp xăng, dầu, phụ tùng),
hoặc theo giá thoả thuận (nếu không được cung ứng các loại trên).
3. Ngoài số huy động theo mức
nghĩa vụ ổn định, ngành lương thực cần kết hợp với các ngành có liên quan (các
ngành sản xuất, cung ứng vật tư, nội thương, ngoại thương) dành quỹ vật tư (tư
liệu sản xuất và vật liệu xây dựng) và hàng công nghiệp tiêu dùng thiết yếu cho
yêu cầu thực tế về sản xuất và đời sống của nông dân từng vùng để mua lương thực
ngoài nghĩa vụ bằng những phương thức thích hợp:
- Cơ quan lương thực dùng một số
xăng dầu, phân bón, vật liệu xây dựng chủ yếu hay một số hàng tiêu dùng thiết yếu
mà nông dân yêu cầu để trao đổi trực tiếp với người sản xuất lấy lương thực
theo tỷ lệ giá trao đổi hay mức giá chỉ đạo của Nhà nước quy định.
- Hai bên mua và bán với nhau
theo giá thoả thuận (đối với những loại hàng tiêu dùng khó dem trao đổi trực tiếp
hay đưa vào hợp đồng).
- Trong tình hình hàng hoá, vật
tư Nhà nước hiện nay có hạn, nhiều khi điều về không kịp, tiền mặt cũng khó
khăn, có thể vận động nông dân có nhiều lúa bán cho Nhà nước nhận trước một phần
hàng và tiền, số còn lại Nhà nước sẽ thanh toán sau từ 3 đến 6 tháng bằng hàng
hay tiền, có tính trả một phần lãi theo mức lãi suất tiền gửi ngân hàng; hoặc
nhà nước ký hợp đồng dài hạn với nông dân, nông dân giao lúa trước, và sẽ được
thanh toán bằng vật liệu xây dựng hay thứ hàng khác do nông dân yêu cầu sau một
vài năm.
Trong vấn đề này, phải kiên trì
giữ vững tỷ giá trao đổi giữa mấy loại vật tư chủ yếu và thóc mà Chính phủ đã
quy định tương đối hợp lý cũng như giá chỉ đạo mua bán cụ thể các loại hàng
khác áp dụng trong quan hệ trao đổi với nông dân. Các ngành, các địa phương
không được tự ý thay đổi tỷ giá trao đổi, định mức giá bán vượt ra ngoài khung
giá hay mức giá cụ thể Hội đồng Bộ trưởng đã quy dịnh. Trường hợp ngành và địa
phương xét thấy cần điều chỉnh giá chuẩn, thì phải đề nghị lên Uỷ ban Vật giá
Nhà nước nghiên cứu tình hình thường vụ Hội đồng Bộ trưởng xét và quyết định.
Nhất thiết không được chạy theo thị trường đua nhau đẩy giá lên cao để tranh
nhau mua, gây tác động xấu đến giá các loại hàng khác, đến ngân sách và tiền tệ
của Nhà nước.
4. Các nông trường quốc doanh trồng
lương thực, phải nghiêm chỉnh thi hành chế độ giao nộp lương thực theo đúng chỉ
tiêu kế hoạch Nhà nước hàng năm và từng vụ.
Bộ Nông nghiệp kết hợp với Bộ
Lương thực và Uỷ ban nhân dân các địa phương có nông trường tổ chức kiểm tra
ngay việc thực hiện kế hoạch sản xuất và giao nộp của các nông trường trong hai
năm nay và đôn đốc việc thực hiện, có thái độ xử lý nghiêm minh đối với những
đơn vị cố tình làm sai chính sách, chế độ để xảy ra tham ô, lãng phí lương thực
của Nhà nước.
5. Đối với những người cố tính
trây ì, dây dưa không chịu làm tròn nghĩa vụ lương thực đối với Nhà nước, thậm
chí còn tích trữ lương thực với mục đích đầu cơ trục lợi, sau khi đã giáo dục
nhiều lần mà vẫn không chuyển, thì tuỳ theo từng trường hợp cụ thể mà xử trí bằng
các biện pháp hành chính.
- Đối với những hộ nông dân có
nhiều lúa dư, không chịu bán cho Nhà nước, cố tình trữ lúa lại với mục đích đầu
cơ hoặc những hộ đầu cơ, cho vay lãi mà có nhiều lúa thì trưng mua theo giá chỉ
đạo thu mua tại địa phương, chỉ để lại cho họ đủ dùng trong gia đình. Uỷ ban
nhân dân huyện xét, quyết định từng trường hợp.
- Đối với những kẻ đầu cơ tích
trữ mang tính chất lũng đoạn thị trường nghiêm trọng, thì truy tố theo pháp lệnh
trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, kinh doanh trái phép. Số lúa dư có thể bị tịch
thu một phần hoặc toàn bộ.
Đối với cán bộ, đảng viên, phải
giáo dục tinh thần xung phong gương mẫu, chấp hành chính sách lương thực của
Nhà nước.
6. Về mặt quản lý thị trường, phải
thực hiện quản lý tận gốc, tại các xã, ấp và các tụ điểm giao lưu lương thực
chính ở từng địa phương, không cho thương nhân buôn bán thóc gạo, ngô, bột mì.
Những người làm hàng xáo được cấp giấy phép kinh doanh, phải nộp thuế và phải
chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt về khối lượng hàng hoá kinh doanh và địa bàn kinh
doanh.
C. VỀ PHÂN
PHỐI
1. Trong tình hình lương thực của
cả nước đang rất khẩn trương và còn khó khăn lâu dài, việc tiêu dùng lương thực
của xã hội phải hết sức tiết kiệm, kể cả ở những nơi cơ thừa lúa gạo. Phải giáo
dục mọi người không sử dụng lãng phí lương thực trong mọi trường hợp.
2. Việc quản lý phân phối lương
thực trong khu vực Nhà nước phụ trách phải tập trung thống nhất vào Bộ Lương thực.
- Các địa phương phải thực hiện
đúng các chính sách, kế hoạch huy động và phân phối lương thực của trung ương,
chỉ giữ lại tiêu dùng trong phạm vi được phân phối theo kế hoạch, và phải chấp
hành nghiêm chỉnh các lệnh điều động gạo, thóc và hoa màu, lương thực khác của
Bộ Lương thực.
- Các địa phương, các ngành, các
đơn vị cơ sở ở những vùng thiếu lương thực không được tự tiện quan hệ ngang với
các tỉnh có thừa lương thực để mua, bán, đem vật tư hàng hoá đến trao đổi lấy
lương thực, mà phải theo sự chỉ đạo và quản lý thống nhất của Bộ Lương thực.
- Việc xuất nhập khẩu lương thực
do trung ương trực tiếp phụ trách toàn bộ thông qua Bộ Ngoại thương và Bộ Lương
thực. Hàng năm, ngoài việc xuất khẩu theo kế hoạch một số gạo để thực hiện cam
kết quốc tế với một số nước anh em, Hội đồng bộ trưởng giao trách nhiệm cho hai
Bộ tính toán cụ thể để thực hiện kế hoạch xuất nhập một số lương thực với tính
chất đổi hạt một cách có lợi nhất, trên nguyên tắc nhập trước xuất sau, bảo đảm
thực hiện đúng các cam kết quốc tế.
- Việc phân phối lương thực cho
các đối tượng Nhà nước phụ trách phải được quản lý thật chặt chẽ trên cơ sở rà
soát lại các đối tượng, tiêu chuẩn, xoá bao cấp, chống mọi hiện tượng khai man
số người va tiêu chuẩn.
Phải tích cực thu mua, chế biến,
vận chuyển nhiều màu về các nơi tiêu thụ để phân phối ăn cùng với gạo. Khuyến
khích các cơ quan, xí nghiệp, đơn vị và các gia đình công nhân, viên chức tự
túc một phần lương thực, Nhà nước trả tiền cho họ phần lương thực mà họ không
nhận cung cấp.
3. Một vấn đề cấp bách, đồng thời
cũng có tính chất lâu dài, cần được giải quyết tốt hiện nay là tổ chức tốt việc
điều vận gạo và thóc từ miền nam (chủ yếu từ các tỉnh đồng bằng sống Cửu Long)
ra miền Bắc, và từ cảng Hải Phòng đi các địa bàn trọng điểm tiêu thụ. Bộ Lương
thực phải có quy hoạch và kế hoạch xây dựng hợp lý hệ thống kho và cơ sở chế biến
lương thực nhất là ở các vùng trọng điểm thu mua, các khu vực dự trữ và trung
chuyển lương thực, phải giải quyết tốt các vấn đề bao bì, cân nhận, bảo quản. Bộ
Giao thông vận tải và Bộ Lương thực phải cùng các cấp chính quyền địa phương phối
hợp chặt chẽ, có kế hoạch và biện pháp trước mắt và lâu dài, dựa vào lực lượng
của trung ương và các địa phương, của Nhà nước va nhân dân, tổ chức và sử dụng
hợp lý các lực lượng bốc xếp và phương tiện vận tải, nhằm tổ chức tốt việc vận
chuyển lương thực trong phạm vi từng tỉnh, từng miền và trong cả nước theo kế
hoạch điều hoà phân phối từng quý, từng tháng (nhất là trong những tháng thu
mua rộ).
Trước mắt, để góp phần tích cực
giải quyết khó khăn trong những tháng giáp hạt ở miền Bắc, phải huy động mọi lực
lượng có thể rút nhanh lúa gạo từ các trọng điểm thu mua, vận chuyển cho được từ
đồng bằng sông Cửu Long ra miền Bắc trong quý II năm 1982 tối thiểu 15 vạn tấn
quy gạo và trong 6 tháng cuối năm khoảng 15 vạn tấn gạo nữa.
Phải hết sức chú trọng tăng cường
công tác bảo quản, bảo vệ lương thực của Nhà nước ở tất cả các khâu, có biện
pháp thực hiện giảm hư, hao và chống mất mát, nhất là trong quá trình giao nhận,
bảo quản và vận chuyển.
Nghị quyết số 99-HĐBT về phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp lớn nhằm giải quyết vấn đề lương thực của cả nước trong thời gian tới do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Văn bản này chưa cập nhật nội dung Tiếng Anh
Nghị quyết số 99-HĐBT ngày 01/06/1982 về phương hướng, nhiệm vụ, chủ trương, biện pháp lớn nhằm giải quyết vấn đề lương thực của cả nước trong thời gian tới do Hội đồng Bộ trưởng ban hành
4.733
|
NỘI DUNG SỬA ĐỔI, HƯỚNG DẪN
Văn bản bị thay thế
Văn bản thay thế
Chú thích
Chú thích:
Rà chuột vào nội dụng văn bản để sử dụng.
<Nội dung> = Nội dung hai
văn bản đều có;
<Nội dung> =
Nội dung văn bản cũ có, văn bản mới không có;
<Nội dung> = Nội dung văn
bản cũ không có, văn bản mới có;
<Nội dung> = Nội dung được sửa đổi, bổ
sung.
Click trái để xem cụ thể từng nội dung cần so sánh
và cố định bảng so sánh.
Click phải để xem những nội dung sửa đổi, bổ sung.
Double click để xem tất cả nội dung không có thay
thế tương ứng.
Tắt so sánh [X] để
trở về trạng thái rà chuột ban đầu.
FILE ĐƯỢC ĐÍNH KÈM THEO VĂN BẢN
FILE ATTACHED TO DOCUMENT
|
|
|
Địa chỉ:
|
17 Nguyễn Gia Thiều, P. Võ Thị Sáu, Q.3, TP.HCM
|
Điện thoại:
|
(028) 3930 3279 (06 lines)
|
E-mail:
|
inf[email protected]
|
Mã số thuế:
|
0315459414
|
|
|
TP. HCM, ngày 31/05/2021
Thưa Quý khách,
Đúng 14 tháng trước, ngày 31/3/2020, THƯ VIỆN PHÁP LUẬT đã bật Thông báo này, và nay 31/5/2021 xin bật lại.
Hơn 1 năm qua, dù nhiều khó khăn, chúng ta cũng đã đánh thắng Covid 19 trong 3 trận đầu. Trận 4 này, với chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, chắc chắn chúng ta lại thắng.
Là sản phẩm online, nên 250 nhân sự chúng tôi vừa làm việc tại trụ sở, vừa làm việc từ xa qua Internet ngay từ đầu tháng 5/2021.
Sứ mệnh của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT là:
sử dụng công nghệ cao để tổ chức lại hệ thống văn bản pháp luật,
và kết nối cộng đồng Dân Luật Việt Nam,
nhằm:
Giúp công chúng “…loại rủi ro pháp lý, nắm cơ hội làm giàu…”,
và cùng công chúng xây dựng, thụ hưởng một xã hội pháp quyền trong tương lai gần;
Chúng tôi cam kết dịch vụ sẽ được cung ứng bình thường trong mọi tình huống.
THÔNG BÁO
về Lưu trữ, Sử dụng Thông tin Khách hàng
Kính gửi: Quý Thành viên,
Nghị định 13/2023/NĐ-CP về Bảo vệ dữ liệu cá nhân (hiệu lực từ ngày 01/07/2023) yêu cầu xác nhận sự đồng ý của thành viên khi thu thập, lưu trữ, sử dụng thông tin mà quý khách đã cung cấp trong quá trình đăng ký, sử dụng sản phẩm, dịch vụ của THƯ VIỆN PHÁP LUẬT.
Quý Thành viên xác nhận giúp THƯ VIỆN PHÁP LUẬT được tiếp tục lưu trữ, sử dụng những thông tin mà Quý Thành viên đã, đang và sẽ cung cấp khi tiếp tục sử dụng dịch vụ.
Thực hiện Nghị định 13/2023/NĐ-CP, chúng tôi cập nhật Quy chế và Thỏa thuận Bảo về Dữ liệu cá nhân bên dưới.
Trân trọng cảm ơn Quý Thành viên.
Tôi đã đọc và đồng ý Quy chế và Thỏa thuận Bảo vệ Dữ liệu cá nhân
Tiếp tục sử dụng

Cảm ơn đã dùng ThuVienPhapLuat.vn
- Bạn vừa bị Đăng xuất khỏi Tài khoản .
-
Hiện tại có đủ người dùng cùng lúc,
nên khi người thứ vào thì bạn bị Đăng xuất.
- Có phải do Tài khoản của bạn bị lộ mật khẩu
nên nhiều người khác vào dùng?
- Hỗ trợ: (028) 3930.3279 _ 0906.229966
- Xin lỗi Quý khách vì sự bất tiện này!
Tài khoản hiện đã đủ người
dùng cùng thời điểm.
Quý khách Đăng nhập vào thì sẽ
có 1 người khác bị Đăng xuất.
Tài khoản của Quý Khách đẵ đăng nhập quá nhiều lần trên nhiều thiết bị khác nhau, Quý Khách có thể vào đây để xem chi tiết lịch sử đăng nhập
Có thể tài khoản của bạn đã bị rò rỉ mật khẩu và mất bảo mật, xin vui lòng đổi mật khẩu tại đây để tiếp tục sử dụng
|
|