HỘI ĐỒNG CHÍNH
PHỦ
******
|
CỘNG HOÀ XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số: 108-CP
|
Hà Nội, ngày 13
tháng 05 năm 1978
|
VỀ TRÁCH NHIỆM, QUYỀN HẠN QUẢN LÝ TÀI CHÍNH VÀ NGÂN SÁCH CỦA
CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH VÀ CẤP HUYỆN
Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của
Đảng Cộng sản Việt Nam
đã xác định: “Nhiệm vụ cơ bản về tài chính là làm chủ các nguồn vốn để thực hiện
đường lối và kế hoạch phát triển kinh tế. Xây dựng một quan hệ hợp lý giữa quỹ
tiêu dùng và quỹ tích lũy. Tài chính phải làm tốt vai trò kiểm tra mọi hoạt động
sản xuất và kinh doanh, phát huy tác dụng tích cực của tài chính thúc đẩy phát
triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội. Xây dựng một ngân sách tích cực
nhằm bảo đảm tốt kế hoạch phát triển kinh tế, mở mang các hoạt động văn hóa-xã
hội, bảo đảm quốc phòng và giữ gìn an ninh. Quản lý chặt chẽ thu chi tài chính
thống nhất trong các cấp ngân sách, đồng thời xác định đúng đắn quyền hạn về
thu chi tài chính của các cấp chính quyền địa phương tương ứng với nhiệm vụ về
quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước của mỗi cấp”.
Việc mở rộng trách nhiệm, quyền
hạn quản lý tài chính của địa phương được thực hiện từ năm 1967 đến nay đã có
tác dụng đề cao một bước vai trò và trách nhiệm của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trong việc quản lý kinh tế, tài chính ở địa
phương, thúc đẩy địa phương tích cực xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa và
chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện nhiệm vụ hậu cần tại chỗ trong chiến
tranh.
Bên cạnh những thành tích và kết
quả đạt được, việc phân cấp quản lý tài chính cho chính quyền Nhà nước cấp tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương có một số khuyết điểm và nhược điểm:
- Chưa bảo đảm chặt chẽ yêu cầu
quản lý tài chính Nhà nước thống nhất và tập trung phục vụ tốt nhiệm vụ kế hoạch,
đồng thời chưa phát huy được trách nhiệm và tính chủ động, sáng tạo của chính
quyền địa phương.
- Chưa phục vụ và thúc đẩy sự quản
lý toàn diện của chính quyền địa phương đối với các mặt hoạt động trong địa
phương, chưa phát huy đầy đủ vai trò của chính quyền địa phương trong việc kiểm
tra đôn đốc và giúp đỡ các xí nghiệp trung ương; mặt khác, chưa phát huy trách
nhiệm của các Bộ, Tổng cục phụ trách đầy đủ công tác quản lý ngành trong cả nước,
bao gồm cả xí nghiệp trung ương và xí nghiệp địa phương thuộc ngành.
- Quản lý tài chính và tín dụng
có phần tách rời quản lý kinh tế, chưa khắc phục được khuynh hướng ỷ lại, cục bộ,
bản vị; vai trò của tín dụng chưa được đề cao đúng mức.
Để thực hiện thắng lợi Nghị quyết
Đại hội lần thứ IV của Đảng, trong thời gian tới, cần phải ra sức khắc phục những
khuyết điểm và nhược điểm nói trên, đồng thời phải tăng cường hơn nữa trách nhiệm
và mở rộng hơn nữa quyền hạn quản lý tài chính và ngân sách của chính quyền địa
phương, nhằm đáp ứng những yêu cầu sau đây:
1. Tăng cường sự lãnh đạo và quản
lý tập trung thống nhất của trung ương về đường lối, chính sách, kế hoạch, chế
độ trong cả nước trên các mặt tài chính, tín dụng, tiền tệ, giá cả, tiền lương;
gắn chặt công tác kế hoạch hóa và quản lý tài chính Nhà nước với công tác kế hoạch
hóa và quản lý kinh tế; kết hợp công tác kế hoạch hóa và quản lý theo ngành với
công tác kế hoạch hóa và quản lý theo địa phương và theo vùng lãnh thổ, bảo đảm
cho nền kinh tế quốc dân trong cả nước phát triển nhịp nhàng, cân đối, với tốc
độ nhanh và hiệu quả kinh tế cao; nâng cao vai trò và trách nhiệm kế hoạch hóa
và quản lý thống nhất trong cả nước của các ngành kinh tế - kỹ thuật.
2. Phát huy mạnh mẽ tính chủ động,
sáng tạo và trách nhiệm toàn diện của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và cấp huyện trong việc khai thác tốt nhất tiềm lực về
lao động, đất đai, tài nguyên và mọi tài sản ở từng tỉnh, từng huyện, để phát
triển mạnh mẽ kinh tế địa phương, kết kợp chặt chẽ kinh tế trung ương với kinh
tế địa phương trên địa bàn tỉnh, huyện, góp phần vào sự phát triển của nền kinh
tế quốc dân và cải thiện đời sống của nhân dân.
Góp phần xây dựng những ngành
kinh tế-kỹ thuật, những vùng kinh tế cơ bản và những cơ cấu kinh tế địa phương
thích hợp với điều kiện tự nhiên và yêu cầu của cả nước, xây dựng các tỉnh
thành những đơn vị kinh tế công-nông nghiệp phát triển, xây dựng các huyện
thành những đơn vị kinh tế nông-công nghiệp vững mạnh, xây dựng chính quyền Nhà
nước cấp tỉnh, thành phố và cấp huyện thành những cấp quản lý toàn diện.
3. Bảo đảm cho Nhà nước-thông
qua ngân sách Nhà nước là khâu chủ đạo trong hệ thống tài chính xã hội chủ
nghĩa thống nhất – tập trung một bộ phận ngày càng quan trọng thu nhập quốc dân
sáng tạo ra hàng năm để thực hiện các nhiệm vụ thực hiện kế hoạch Nhà nước theo
đường lối của Đảng; làm cho chính quyền Nhà nước cấp tỉnh, thành phố và cấp huyện
đều có trách nhiệm, quyền hạn quản lý tài chính Nhà nước và ngân sách Nhà nước
trên địa bàn quản lý của mình, làm chủ được ngân sách tỉnh, thành phố và ngân
sách huyện, công cụ để bảo đảm việc hoàn thành các nhiệm vụ kế hoạch của chính
quyền địa phương.
I. TRÁCH
NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC CẤP TỈNH, THÀNH PHỐ VẾ QUẢN LÝ TÀI
CHÍNH NHÀ NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH TỈNH, THÀNH PHỐ
A. Về quản lý
tài chính Nhà nước và ngân sách Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh, thành phố:
tiếp theo nghị định số 24-CP ngày 02-02-1976 của Hội đồng Chính phủ (điều 13 và
14), nay quy định cụ thể thêm như sau:
1. Đối với các
xí nghiệp quốc doanh địa phương và các ngành do chính quyền địa phương quản lý,
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ:
- Chỉ đạo công tác kế hoạch hóa
và quản lý tài chính gắn liền với công tác chỉ đạo kế hoạch hóa và quản lý kinh
tế-kỹ thuật của ngành, bảo đảm thống nhất kế hoạch hiện vật với kế hoạch
giá trị; thực hiện ngày càng hoàn chỉnh chế độ hạch toán kinh tế, thúc đẩy việc
khai thác tiềm lực sẵn có để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ
giá thành và phí lưu thông, tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước;
- Chỉ đạo công tác kế toán-thống
kê ở xí nghiệp theo chế độ thống nhất của Nhà nước;
- Kiểm tra tài chính và kiểm tra
kế toán thường xuyên và theo định kỳ để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đưa việc
quản lý vào nguyên tắc, chế độ chặt chẽ; giữ vững kỷ luật về quản lý tài chính,
tiền tệ, giá cả…, chống lãng phí, tham ô.
2. Đối với các
xí nghiệp quốc doanh trung ương hoạt động trên địa bàn tỉnh, thành phố, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ:
- Sử dụng Ty, Sở tài chính, Ngân
hàng kiến thiết và Ngân hàng Nhà nước để tham gia ý kiến vào việc xây dựng kế
hoạch tài chính gắn liền với kế hoạch kinh tế-kỹ thuật, thúc đẩy việc khai thác
tiềm lực sẵn có để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành
và phí lưu thông, tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước.
- Kiểm tra tài chính, kiểm tra kế
toán thường xuyên và theo định kỳ để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đưa việc
quản lý vào nguyên tắc, chế độ chặt chẽ, giữ vững kỷ luật về quản lý tài chính,
tiền tệ, giá cả…, chống lãng phí, tham ô.
3. Đối với khu
vực kinh tế tập thể (hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, hợp tác xã ngư nghiệp,
hợp tác xã thủ công nghiệp…), Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ:
- Thông qua cấp huyện để chỉ đạo
việc tổ chức công tác tài vụ và kế toán hợp tác xã, giúp các hợp tác xã thực hiện
từng bước chế độ hạch toán kinh tế;
- Kiểm tra việc chấp hành chế độ
kế toán-thống kê, chế độ tài vụ do Nhà nước ban hành, kiểm tra tình hình kinh tế-tài
chính của hợp tác xã nhằm đề cao quyền làm chủ tập thể của xã viên, đẩy mạnh sản
xuất-kinh doanh theo đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, nâng cao
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng tích lũy cho tập thể, nâng cao
đời sống và thu nhập của xã viên, đảm bảo thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ bán sản
phẩm và nộp thuế cho Nhà nước
4. Đối với ngân
sách Nhà nước, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chỉ đạo thực hiện và
kiểm tra công tác thu Nhà nước và thu thuế tại địa phương, bảo đảm việc thu nộp
vào ngân sách Nhà nước của các xí nghiệp quốc doanh (trung ương và địa phương),
của các hợp tác xã, các đơn vị và cơ quan, cũng như của các cá nhân công dân,
theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, đúng kế hoạch, đủ và kịp thời: thông
qua công tác thu mà tác động đến hoạt động kinh tế, thực hiện việc kiểm tra, kiểm
soát của Nhà nước đối với kinh tế cá nhân, khuyến khích sản xuất kinh doanh
theo đúng phương hướng, chính sách của Nhà nước, tăng cường quản lý thị trường,
khuyến khích và thúc đẩy công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, góp phần củng cố và
hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Đối với các khoản chi của các
ngành trung ương thực hiện trên địa bàn tỉnh, thành phố, ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố thông qua Ty, Sở tài chính, Ngân hàng kiến thiết, Ngân hàng Nhà nước,
theo dõi tình hình chi tiêu, tổ chức việc cân đối các mặt lao động, vật tư,
hàng hóa, tiền mặt trong tỉnh, thành phố; kiểm tra việc chấp hành các chính
sách, chế độ và kỷ luật về quản lý tài chính, giá cả, tiền mặt. Nếu xét thấy số
tiền cấp phát sử dụng không đúng mục đích, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật tài
chính, thì Ủy ban nhân dân tỉnh có quyền ra lệnh tạm hoãn việc cấp phát kinh
phí, đồng thời báo cáo ngay lên Bộ chủ quản và Bộ Tài chính.
Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc
các ngành trung ương có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính; cung cấp đầy đủ và kịp
thời cho cán bộ tài chính được ủy quyền: tình hình và những tài kiệu cần thiết
để hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu kiểm tra của Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố.
5. Đối với ngân
sách tỉnh, thành phố, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chỉ đạo việc
lập, chấp hành và quyết toán ngân sách tỉnh, thành phố theo đúng chính sách, chế
độ của Nhà nước và sự hướng dẫn của Bộ Tài chính; bảo đảm phát huy tác dụng của
ngân sách tỉnh, thành phố là công cụ tài chính để thực hiện các nhiệm vụ chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và quản lý Nhà nước của chính quyền cấp tỉnh,
thành phố.
Đối với ngân sách huyện, Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân huyện
và Ủy ban nhân dân huyện trong việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách huyện
theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước.
Đối với ngân sách xã, Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố thông qua cấp huyện, hướng dẫn và kiểm tra Hội đồng nhân
dân xã và Ủy ban nhân dân xã trong việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách
xã theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước.
6. Đối với các
quỹ bảo hiểm xã hội, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố hướng dẫn, kiểm tra hoạt động
của các quỹ bảo hiểm xã hội trong tỉnh, thành phố và các quỹ dự trữ của hợp tác
xã theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước.
7. Đối với hoạt
động tín dụng, thanh toán và quản lý tiền mặt của ngân hàng, Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra các hoạt động của Ngân hàng Nhà nước,
Ngân hàng kiến thiết trong địa bàn tỉnh, thành phố, kết hợp tốt tín dụng với
các biện pháp tài chính khác, phát huy tác dụng của hệ thống ngân hàng phục vụ
sản xuất, xây dựng và lưu thông hàng hóa, thúc đẩy hạch toán kinh tế.
B. Ngân sách
tỉnh, thành phố
1. Ngân sách
tỉnh, thành phố là kế hoạch tài chính cơ bản của chính quyền Nhà nước cấp tỉnh,
thành phố, là công cụ để bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch về kinh tế-văn
hóa-xã hội của tỉnh, thành phố, bảo đảm sự hoạt động bình thường của các cơ
quan quản lý Nhà nước cấp tỉnh, thành phố. Thông qua ngân sách tỉnh, thành phố,
chính quyền Nhà nước cấp tỉnh, thành phố khai thác và động viên mọi khả năng tiềm
tàng về lao động, đất đai, tài nguyên và mọi tài sản thuộc kinh tế địa phương;
thực hiện việc phân phối theo đúng phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch Nhà nước,
đúng nguyên tắc, chính sách, chế độ các nguồn vốn mà Nhà nước giao cho địa
phương quản lý đạt hiệu quả kinh tế cao; thực hiện việc giám đốc, kiểm tra tài
chính đối với mọi hoạt động của các ngành, các cấp, các xí nghiệp và đơn vị cơ
sở nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng lưu thông hàng hóa, động viên
phong trào đồng khởi thi đua xã hội chủ nghĩa, lao động sản xuất và tiết kiệm,
hoàn thành toàn diện và vượt mức kế hoạch Nhà nước.
2. Căn cứ vào
phương hướng, nhiệm vụ và các chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước trong từng thời kì đối
với cả nước cũng như đối với từng địa phương, các nguồn thu được xác định cho
ngân sách tỉnh, thành phố bảo đảm thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch hàng năm của
tỉnh, thành phố.
Được ghi vào ngân sách tỉnh,
thành phố tất cả các khoản chi thuộc chức trách, nhiệm vụ và quyền quản lý của
chính quyền Nhà nước cấp tỉnh, thành phố nhằm đáp ứng yêu cầu thực hiện kế hoạch
về kinh tế-văn hóa-xã hội của địa phương, bảo vệ trật tự an ninh và bảo đảm hoạt
động của bộ máy quản lý Nhà nước thuộc địa phương.
a) Chi về xây dựng và phát triển
kinh tế địa phương, bao gồm vốn xây dựng cơ bản và vốn lưu động thuộc ngân sách
cấp phát (không kể phẩn do ngân hàng đầu tư bằng vốn tín dụng); các khoản kinh
phí khác cấp cho các xí nghiệp quốc doanh và các đơn vị sự nghiệp kinh tế do cấp
tỉnh, thành phố quản lý; chi về xây dựng và quản lý kết cấu kinh tế hạ tầng phục
vụ chung tất cả các cơ sở kinh tế, văn hóa và đời sống của dân cư trên lãnh thổ
tỉnh, thành phố.
b) Chi về phát triển văn hóa-xã
hội ở địa phương, bao gồm vốn xây dựng cơ bản và các khoản kinh phí để thực hiện
các sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa, nghiên cứu khoa học-kỹ thuật; các khoản
chi về phục vụ lợi ích công cộng và phúc lợi tập thể, về xây dựng nhà ở, về quỹ
bảo hiểm xã hội và sự nghiệp xã hội ở tỉnh, thành phố.
c) Chi về quản lý hành chính để
đảm bảo hoạt động của các cơ quan quản lý Nhà nước thuộc địa phương.
d) Các khoản chi khác do Nhà nước
quy định ghi vào ngân sách tỉnh, thành phố.
Ngoài ra, ngân sách tỉnh, thành
phố hàng năm còn ghi một khoản dự bị phí bằng từ 3% đến 5% tổng số chi của ngân
sách để ứng phó với những nhu cầu chi đột xuất.
3. Nguồn thu
chủ yếu của ngân sách tỉnh, thành phố là dựa vào phát triển sản xuất, kinh
doanh của tỉnh, thành phố, trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp,
ngư nghiệp, công nghiệp và thủ công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu, nhằm vào những mặt hàng mà địa phương có truyền thống sản xuất và có điều
kiện về nguyên liệu để cung ứng cho đời sống của nhân dân và tham gia vào kế hoạch
xuất khẩu của Nhà nước; làm tốt công tác lưu thông, phân phối phục vụ sản xuất
và đời sống nhân dân.
Tất cả các nguồn thu ngân sách
trên lãnh thổ tỉnh, thành phố là nguồn thu chung của ngân sách Nhà nước. Căn cứ
vào yêu cầu chung của tỉnh, thành phố và tùy theo tính chất của từng loại thu
mà Nhà nước quy định để lại cho ngân sách tỉnh, thành phố một mức cần thiết để
đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế-văn hóa-xã hội hàng
năm của tỉnh, thành phố:
a) Các khoản thu quốc doanh của
các xí nghiệp quốc doanh thuộc trung ương và địa phương
b) Các khoản thu trích nộp lợi
nhuận xí nghiệp của các xí nghiệp quốc doanh thuộc trung ương và địa phương, trừ
lợi nhuận của các ngành: vận tải đường sắt, đường biển, đường hàng không, bưu
điện, thu của các cơ sở kinh doanh vật tư do Bộ vật tư quản lý, thu của các cơ
sở điện lực do Bộ Điện và than quản lý, thu bù của toàn ngành lương thực (không
tính các xí nghiệp chế biến lương thực, thực phẩm), thu bù chênh lệch ngoại
thương và lợi nhuận của các cơ sở kinh doanh do Bộ Ngoại thương quản lý, thu của
Công ty bảo hiểm Nhà nước, thu của Ngân hàng Nhà nước và Ngân hàng kiến thiết.
c) Khoản thưởng khuyến khích
hàng xuất khẩu (kể cả thưởng bằng ngoại tệ cho địa phương, không kể các khoản
thưởng xuất khẩu dành cho các cơ sở sản xuất).
d) Các loại thuế thu vào khu vực
kinh tế tập thể, cá thể như thuế nông nghiệp, thuế công thương nghiệp…
đ) Các khoản thu khác, bao gồm:
- Thu khấu hao cơ bản (trừ các
xí nghiệp vay vốn đầu tư của ngân hàng, từ phần khấu hao cơ bản để lại cho các
liên hiệp xí nghiệp trực thuộc trung ương theo quy định của Nhà nước), thu tiền
bán tài sản thải loại thuộc cấp tỉnh, thành phố quản lý; thu hoàn vốn lưu động
thừa của các xí nghiệp quốc doanh do cấp tỉnh, thành phố quản lý
- Thu về các sự nghiệp kinh tế,
văn hóa do cấp tỉnh, thành phố quản lý.
- Một số khoản thu khác mà cấp tỉnh,
thành phố được phép thu theo quy định thống nhất của Nhà nước.
Các khoản thu ở điểm a, b, c, d
nói trên được để lại cho ngân sách tỉnh, thành phố một phần theo tỷ lệ điều tiết.
Tỷ lệ điều tiết từng loại thu do Hội đồng Chính phủ xác định cho từng tỉnh,
thành phố và được ổn định cho đến năm 1980 (riêng các tỉnh, thành phố miền Nam
chưa ổn định tỷ lệ điều tiết này, vì nền kinh tế đang trong quá trình cải tạo
xã hội chủ nghĩa)
Các khoản thu khác nói ở điểm đ
dành hoàn toàn cho ngân sách tỉnh, thành phố.
e) Nếu các loại thu nói trên vẫn
chưa đủ để đảm bảo các yêu cầu chi để thực hiện nhiệm vụ của tỉnh, thành phố
thì ngân sách trung ương trợ cấp cho ngân sách tỉnh, thành phố.
Trợ cấp của ngân sách trung ương
cho ngân sách tỉnh, thành phố gồm hai loại:
- Trợ cấp đầu tư xây dựng cơ bản
một số công trình kinh tế, văn hóa trọng điểm ghi trong kế hoạch Nhà nước hoặc
một số khoản chi xây dựng cơ bản vượt quá khả năng của ngân sách địa phương.
- Trợ cấp để cân đối ngân sách
cho những tỉnh, thành phố ,mà kinh tế chưa phát triển và còn nhiều khó khăn.
Ngoài vốn ngân sách các địa
phương còn được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện kế hoạch đầu tư xây
dựng cơ bản của địa phương, hoặc để giải quyết nhu cầu vốn lưu động của địa
phương theo chế độ của Nhà nước.
4. Hàng năm,
căn cứ vào sổ kiểm tra kế hoạch Nhà nước và ngân sách Nhà nước đã được giao và
căn cứ vào nhiệm vụ phát triển của mỗi ngành, của từng vùng lãnh thổ và của từng
tỉnh, thành phố mà các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan trực thuộc Hội đồng Chính
phủ (dưới đây gọi tắt là các Bộ) hướng dẫn các ngành ở cấp tỉnh, thành phố xây
dựng dự án kế hoạch kinh tế và kế hoạch tài chính; đồng thời Bộ Tài chính tham
khảo y kiến của các Bộ và hướng dẫn các Ty, Sở tài chính giúp Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố xây dựng dự án ngân sách tỉnh, thành phố
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
giao sổ kiểm tra ngân sách cho các Ty, Sở, đồng thời giao sổ kiểm tra ngân sách
cho Ủy ban nhân dân huyện. Căn cứ vào sổ kiểm tra này, các Ty, Sở xây dựng dự
án ngân sách ngành; Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo các đơn vị kinh tế, sự nghiệp,
hành chính xây dựng kế hoạch tài chính và dự toán ngân sách huyện.
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố
tổng hợp dự án ngân sách của các huyện và dự án ngân sách của các Ty, Sở thành
lập dự án ngân sách tỉnh, thành phố, gửi dự án ngân sách tỉnh, thành phố đến Bộ
Tài chính, để Bộ Tài chính lập dự án ngân sách Nhà nước trình Hội đồng Chính phủ
xét duyệt và trình Quốc hội quyết định. Căn cứ vào kế hoạch Nhà nước và ngân
sách Nhà nước đã được Quốc hội quyết định, Hội đồng Chính phủ giao kế hoạch và
ngân sách cho các tỉnh, thành phố; trên cơ sở đó, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố lập dự án kế hoạch và ngân sách chính thức của tỉnh, thành phố để trình Hội
đồng nhân dân tỉnh, thành phố thảo luận và quyết định.
Việc lập ngân sách tỉnh, thành
phố phải kết hợp chặt chẽ với việc xây dựng kế hoạch kinh tế-văn hóa-xã hội của
địa phương, gắn liền kế hoạch hiện vật với kế hoạch giá trị và kế hoạch tài
chính.
5. Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố quyết định:
a) Ngân sách tỉnh, thành phố với
tổng số thu có chia ra các nguồn thu chính và với tổng số chi có chia ra các
khoản chi cấp phát cho kinh tế, văn hóa, xã hội, cấp phát cho bộ máy quản lý
Nhà nước cấp tỉnh, thành phố và các khoản chi khác do ngân sách tỉnh, thành phố
đài thọ;
b) Phần ngân sách do cấp tỉnh,
thành phố trực tiếp quản lý;
c) Ngân sách từng huyện nằm
trong ngân sách tỉnh;
6. Trong khi
quyết định ngân sách tỉnh, thành phố, Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố có thể
tăng tổng số thu ngân sách đã được Quốc hội quyết định với điều kiện thu đúng
chính sách, chế độ của Nhà nước và trên cơ sở cải tiến quản lý, khai thác tiềm
lực của kinh tế địa phương và không được thay đổi tỷ lệ điều tiết các khoản thu
đã được Hội đồng Chính phủ xác định; trên cơ sở tăng mức thu ngân sách, Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố có thể tăng tổng số chi ngân sách với điều kiện chi
đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, đúng phương hướng kế hoạch Nhà nước và bảo
đảm các mặt cân đối, không được tăng chi về quản lý hành chính.
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân tỉnh, thành phố không được tự ý đặt ra mọi khoản thu nào nếu không được Hội
đồng Chính phủ cho phép.
7. Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ tổ chức việc chấp hành ngân sách do Hội đồng
nhân dân tỉnh, thành phố đã quyết định theo đúng điều lệ về lập, chấp hành và
quyết toán ngân sách Nhà nước:
- Hàng quý duyệt kế hoạch thu
chi quý (có chia ra từng tháng) do Ty, Sở tài chính lập; Ty, Sở tài chính phải
gửi báo cáo này lên Bộ Tài chính.
- Chỉ đạo Ty, Sở tài chính thu
đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, thu đủ và kịp thời, phấn đấu hoàn thành
và hoàn thành vượt mức sổ thu của ngân sách Nhà nước (ngân sách trung ương và
ngân sách tỉnh).
- Cấp phát vốn kịp thời, sát tiến
độ thực hiện công tác, sử dụng vốn hợp lý và tiết kiệm, đúng mục đích, chấp
hành nghiêm chỉnh chính sách, chế độ tài chính, kế toán và chế độ quyết toán của
Nhà nước
8. Trong quá
trình chấp hành ngân sách:
- Nếu tăng thu đúng chính sách,
chế độ và tiết kiệm chi so với tiêu chuẩn, định mức thì Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố được quyền tăng thêm vốn xây dựng cơ bản hoặc chi thêm những khoản mới
chưa dự trù trong kế hoạch đầu năm, nhưng không được tăng kinh phí quản lý hành
chính.
- Nếu thu bị giảm, thì phải điều
chỉnh kế hoạch chi để cân đối lại thu chi ngân sách.
- Nếu không sắp xếp được, thì sử
dụng phí dự bị; việc sử dụng phí dự bị phải do Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương quyết định và ký văn bản.
- Nếu sử dụng ngân sách sai
chính sách, chế độ Nhà nước đã quy định, thì những người có trách nhiệm trong Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố sẽ bị coi là vi phạm kỷ luật tài chính và bị xử lý
theo pháp luật Nhà nước.
9. Sau khi
ngân sách Nhà nước đã được phê chuẩn, trong quá trình chấp hành, nếu có trường
hợp Nhà nước thay đổi chủ trương và chính sách làm cho ngân sách tỉnh, thành phố
phải tăng chi hoặc giảm thu, thì ngân sách trung ương bù đắp các khoản thiếu hụt
đó; nếu ngược lại làm giảm chi hoặc tăng thu, thì ngân sách tỉnh, thành phố phải
nộp khoản vốn dôi ra vào ngân sách trung ương.
10. Cuối
năm, nếu do tăng cường và cải tiến quản lý mà hoàn thành vượt mức nhiệm vụ thu
và hoàn thành nhiệm vụ chi nhưng tiết kiệm được kinh phí so với tiêu chuẩn, định
mức, và thành tích đó được Bộ Tài chính xác nhận, thì Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố được giữ lại số kết dư hình thành để làm dự trữ tài chính cho địa phương hoặc
để xây dựng những công trình kinh tế, văn hóa, phúc lợi ở địa phương. Kế hoạch
sử dụng kết dư do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố quyết định và báo cáo với Bộ
Tài chính.
Tùy theo tình hình cụ thể, Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố có thể sử dụng số kết dư để cân đối ngân sách tỉnh
của năm sau. Trong trường hợp đặt biệt, theo đề nghị của Bộ Tài chính, Thủ tướng
Chính phủ có thể điều động số kết dư của ngân sách tỉnh, thành phố để bảo vệ những
nhu cầu chung của cả nước.
Nếu không hoàn thành nhiệm vụ kế
hoạch xây dựng cơ bản do vốn ngân sách trung ương trợ cấp mà còn thừa vốn, thì
số thừa phải ghi vào ngân sách của năm sau hoặc nộp trả lại ngân sách trung
ương.
11. Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ chấp hành đúng chế độ kế toán ngân sách và
báo cáo với Bộ Tài chính tình hình chấp hành kế hoạch thu chi ngân sách hàng
tháng và quyết toán ngân sách hàng quý. Báo cáo phải chính xác, trung thực,
đúng thời hạn và theo biểu mẫu thống nhất do Bộ Tài chính quy định
12. Hàng
năm, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ lập tổng quyết toán ngân sách
tỉnh, thành phố gồm quyết toán của các ngành trong tỉnh, thành phố và quyết
toán ngân sách các huyện, trình Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố phê chuẩn rồi
gửi đến Bộ Tài chính để tổng hợp và lập tổng quyết toán ngân sách Nhà nước.
13. Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố có nhiệm vụ tổ chức việc thanh tra tài chính đối với tất
cả các ngành, các cấp, các đơn vị, nhằm thúc đẩy việc chấp hành nghiêm chỉnh
các chính sách, chế độ của Nhà nước, giữ vững kỷ luật về quản lý tài chính, tiền
tệ, giá cả…bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống lãng phí, tham ô.
II. TRÁCH
NHIỆM VÀ QUYỀN HẠN CỦA CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC CẤP HUYỆN VẾ QUẢN LÝ TÀI CHÍNH NHÀ
NƯỚC VÀ QUẢN LÝ NGÂN SÁCH HUYỆN
A. Về quản
lý tài chính Nhà nước và ngân sách Nhà nước trên địa bàn huyện, tiếp theo
nghị quyết của Hội đồng Chính phủ số 33-CP ngày 04-02-1978 (điều 7), nay quy định
cụ thể thêm như sau:
1. Đối với
các xí nghiệp quốc doanh do cấp huyện quản lý, Ủy ban nhân dân huyện có nhiệm vụ:
- Chỉ đạo công tác kế hoạch hóa
và quản lý tài chính gắn liền với công tác kế hoạch hóa và quản lý kinh tế-kỹ
thuật của ngành, bảo đảm thống nhất kế hoạch hiện vật với kế hoạch giá trị, thực
hiện ngày càng hoàn chỉnh chế độ hạch toán kinh tế, thúc đẩy việc khai thác tiềm
lực sẵn có để đẩy mạnh sản xuất, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành và
phí lưu thông, tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước.
- Chỉ đạo công tác kế toán thống
kê ở xí nghiệp theo chế độ thống nhất của Nhà nước.
- Kiểm tra tài chính, kiểm tra kế
toán thường xuyên và theo định kỳ để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, đưa việc
quản lý vào nguyên tắc, chế độ chặt chẽ, giữ vững kỷ luật về quản lý tài chính,
tiền tệ, giá cả…, chống lãng phí, tham ô.
2. Đối với
các xí nghiệp quốc doanh do cấp tỉnh và trung ương quản lý họat động trên địa
bàn huyện, Ủy ban nhân dân huyện có nhiệm vụ:
- Sử dụng cơ quan tài chính,
Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng kiến thiết để tham gia ý kiến vào việc lập kế hoạch
tài chính gắn liền với kế hoạch kinh tế - kỹ thuật của những đơn vị có liên
quan đến cơ cấu kinh tế nông-công nghiệp huyện do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố hoặc các ngành trung ương ủy nhiệm cụ thể cho huyện, thúc đẩy các đơn vị này
khai thác tiềm lực sẵn có để đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm nâng cao chất lượng lao
động. hạ giá thành và phí lưu thông. Tăng tích lũy cho ngân sách Nhà nước.
- Kiểm tra tài chính, kiểm tra kế
toán thường xuyên và theo định kỳ để bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, giữ vững
kỷ luật về quản lý tài chính – kế toán, tín dụng, tiền tệ, giá cả…, chống lãng
phí, tham ô.
3. Đối với
khu vực kinh tế tập thể, (hợp tác xã nông nghiệp, lâm nghiệp, hợp tác xã ngư
nghiệp, hợp tác xã thủ công nghiệp…), Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo, hướng dẫn
việc tổ chức công tác tài vụ và kế toán hợp tác xã, giúp các hợp tác xã thực hiện
từng bước chế độ hạch toán kinh tế.
- Kiểm tra việc chấp hành chế độ
kế toán, thống kê, tài vụ do Nhà nước ban hành; kiểm tra tình hình kinh tế, tài
chính, nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của xã viên, đẩy mạnh sản xuất-kinh
doanh, nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm, tăng tích lũy cho tập
thể, nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên.
- Đôn đốc, kiểm tra các hợp tác
xã làm nghĩa vụ nộp thuế và bán sản phẩm cho Nhà nước.
4. Đối với
ngân sách Nhà nước, Ủy ban nhân dân huyện có nhiệm vụ:
- Chỉ đạo thực hiện và kiểm tra
công tác thu Nhà nước đối với một số xí nghiệp và đơn vị do Ủy ban nhân dân,
thành phố ủy nhiệm cụ thể, tổ chức việc thu thuế tại địa phương, bảo đảm việc
thu nộp vào ngân sách Nhà nước của các xí nghiệp quốc doanh (trung ương, tỉnh
và huyện), của các hợp tác xã, các đơn vị và cơ quan, cũng như của các cá nhân
công dân, theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, đúng kế hoạch, đủ và kịp
thời; thông qua công tác thu mà tác động đến hoạt động kinh tế, thực hiện việc
kiểm tra, kiểm soát của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân, khuyến khích sản xuất-kinh
doanh theo đúng chính sách, phương hướng kế hoạch của Nhà nước, tăng cường quản
lý thị trường, khuyến khích và thúc đẩy công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa, góp
phần củng cố và hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Đối với các khoản chi của các
ngành trung ương và tỉnh, thành phố thực hiện trên địa bàn huyện, Ủy ban nhân
dân huyện có trách nhiệm và quyền hạn theo dõi tình hình chi tiêu trong phạm vi
quyền hạn và trách nhiệm của huyện mà tổ chức việc cân đối các mặt lao động, vật
tư, tiền mặt trong huyện, kiểm tra việc chấp hành các chính sách, chế độ và kỷ
luật tài chính, kỷ luật giá cả, kỷ luật tiền mặt. Nếu xét thấy số tiền cấp phát
không sử dụng đúng mục đích, vi phạm nghiêm trọng kỷ luật tài chính, thì Ủy ban
nhân dân huyện phải báo cáo ngay lên Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố và Ty, Sở
tài chính xét và giải quyết.
- Thủ trưởng các đơn vị trực thuộc
các ngành trung ương và tỉnh, thành phố có trách nhiệm tạo mọi điều kiện thuận
lợi cho Ủy ban nhân dân huyện thực hiện nhiệm vụ kiểm tra tài chính, cung cấp đầy
đủ và kịp thời cho cán bộ tài chính được ủy quyền: tình hình và những tài liệu
cần thiết để hoàn thành nhiệm vụ theo yêu cầu của Ủy ban nhân dân huyện.
5. Đối với
ngân sách huyện, Ủy ban nhân dân huyện có nhiệm vụ chỉ đạo việc lập, chấp hành
và quyết toán ngân sách huyện theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước và sự
hướng dẫn của Ty, Sở tài chính, bảo đảm phát huy tác dụng của ngân sách huyện
là công cụ tài chính, để thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và quản lý Nhà nước của chính quyền cấp huyện.
Đối với ngân sách xã, Ủy ban
nhân dân huyện chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân xã và Ủy ban nhân
dân xã trong việc lập, chấp hành và quyết toán ngân sách xã theo đúng chính
sách, chế độ của Nhà nước.
6. Đối với quỹ
bảo hiểm xã hội, Ủy ban nhân dân huyện hướng dẫn, kiểm tra hoạt động của các quỹ
bảo hiểm xã hội trong huyện và các quỹ dự trữ của các hợp tác xã theo đúng
chính sách, chế độ Nhà nước.
7. Đối với hoạt
động tín dụng, thanh toán và quản lý tiền mặt của ngân hàng, Ủy ban nhân dân
huyện chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra các hoạt đồng của Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng kiến thiết trên địa bàn huyện, kết hợp tốt tín dụng và các biện pháp tài
chính khác, phát huy tác dụng của hệ thống ngân hàng phục vụ sản xuất và lưu
thông, thúc đẩy hạch toán kinh tế.
B. Ngân
sách huyện.
1. Ngân sách
huyện là kế hoạch tài chính cơ bản của chính quyền Nhà nước cấp huyện, là công
cụ để xây dựng huyện vững mạnh, thật sự trở thành đơn vị kinh tế nông-công nghiệp,
tạo điều kiện cho chính quyền Nhà nước cấp huyện thành một cấp quản lý kế hoạch
toàn diện: quản lý sản xuất, quản lý lưu thông phân phối và quản lý đời sống.
Thông qua ngân sách huyện, chính quyền Nhà nước cấp huyện khai thác và động
viên mọi khả năng tiềm tàng về lao động, đất đai, tài nguyên và mọi tài sản của
huyện; thực hiện việc phân phối theo đúng phương hướng và nhiệm vụ kế hoạch Nhà
nước, đúng nguyên tắc và chính sách, chế độ những nguồn vốn mà Nhà nước giao
cho huyện quản lý, đạt hiệu quả kinh tế cao; thực hiện việc giám đốc, kiểm tra
tài chính đối với mọi hoạt động sản xuất-kinh doanh của các ngành, các xí nghiệp
và đơn vị cơ sở do cấp huyện quản lý, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển, mở rộng
lưu thông hàng hóa, thực hành tiết kiệm, hoàn thành toàn diện và vượt mực kế hoạch
Nhà nước.
2. Được ghi
vào ngân sách huyện các khoản chi bảo đảm nhiệm vụ của chính quyền Nhà nước cấp
huyện:
a) Chi về xây
dựng và phát triển kinh tế của huyện, bao gồm vốn xây dựng cơ bản, vốn lưu động
thuộc ngân sách cấp phát (không kể phần do ngân hàng đầu tư bằng vốn tín dụng);
các khoản kinh phí khác cấp cho các xí nghiệp quốc doanh và các đơn vị sự nghiệp
kinh tế do cấp huyện quản lý.
b) Chi về phát
triển văn hóa, giáo dục, y tế, đào tạo cán bộ, nghiên cứu cải tiến kỹ thuật,
công tác xã hội trên địa bàn huyện, bao gồm vốn xây dựng cơ bản, kinh phí sự
nghiệp cho các tổ chức văn hóa, các đơn vị sự nghiệp nhà trẻ, mẫu giáo, vỡ
lòng, giáo dục phổ thông, các bệnh viện, bệnh xá, tổ chức y tế và bảo vệ sức khỏe
của nhân dân, các đội y tế lưu động… các đơn vị sự nghiệp thông tin, tuyên truyền,
thể dục thể thao, các đơn vị sự nghiệp xã hội và công tác xã hội do cấp huyện
quản lý.
c) Chi về quản
lý hành chính ở cấp huyện.
d) Chi trợ cấp
cho các xã trong huyện.
đ) Các khoản
chi khác.
Ngoài ra, ngân sách huyện còn
ghi một khoản dự bị bằng từ 3% đến 5% tổng số chi của ngân sách để ứng phó với
những nhu cầu chi đột xuất.
3. Nguồn thu
chủ yếu của ngân sách huyện là dựa vào phát triển sản xuất-kinh doanh của huyện,
trước hết là đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, sản xuất
hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm vào những mặt hàng mà địa phương có truyền
thống sản xuất và có điều kiện về nguyên liệu để cung ứng cho đời sống của nhân
dân và tham gia vào kế hoạch xuất khẩu của Nhà nước; làm tốt công tác thu mua nắm
nguồn hàng và công tác lưu thông phân phối phục vụ sản xuất và đời sống của
nhân dân.
Tất cả các nguồn
thu Nhà nước trên địa bàn huyện là nguồn thu chung của ngân sách Nhà nước.
Căn cứ vào yêu cầu chung của huyện và tùy theo tính chất của từng nguồn thu mà quy
định để lại cho ngân sách huyện một mức cần thiết để đảm bảo thực hiện các nhiệm
vụ kế hoạch kinh tế-văn hóa-xã hội hàng năm của huyện, gồm:
a) Các loại thuế như thuế nông
nghiệp, thuế công thương nghiệp giao cho cấp huyện tổ chức thu và được hưởng một
phần số thu đó theo quy đinh của Nhà nước.
b) Các khoản thu quốc doanh, thu
trích nộp lợi nhuận của các xí nghiệp quốc doanh do cấp huyện quản lý, hoặc do
cấp tỉnh quản lý nhưng giao cho cấp huyện thu và được hưởng một phần số thu đó
theo quy định của Nhà nước.
c) Khoản thưởng khuyến khích
hàng xuất khẩu (kể cả thưởng bằng ngoại tệ) cho huyện không kể các khoản thưởng
xuất khẩu dành cho các cơ sở sản xuất.
d) Thu khấu hao cơ bản (trừ các
xí nghiệp vay vốn đầu tư của ngân hàng, trừ phần khấu hao cơ bản để lại cho các
liên hiệp xí nghiệp trực thuộc trung ương hoặc cấp tỉnh theo quy định của Nhà
nước), thu tiền bán tài sản thải loại do huyện quản lý, thu hoàn vốn lưu động
thừa của các xí nghiệp quốc doanh do huyện quản lý; các khoản thu về sự nghiệp
kinh tế, văn hóa do cấp huyện quản lý, một số khoản thu khác do Nhà nước quy định
thống nhất và cho phép cấp huyện thu.
Phần để lại cho ngân sách huyện
là một phần trong số thu điều tiết của ngân sách Nhà nước đã dành cho ngân sách
tỉnh, thành phố. Mức được hưởng của ngân sách huyện ở điểm a, b nói trên do Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố xác định hàng năm theo sự hướng dẫn của Bộ Tài
chính.
Các khoản thu
nói ở điểm d trên đây dành hoàn toàn cho ngân sách huyện.
đ) Nếu các loại
thu nói trên vẫn chưa đủ để bảo đảm các yêu cầu chi để thực hiện nhiệm vụ của
huyện, thì ngân sách tỉnh trợ cấp cho ngân sách huyện.
Ngoài vốn ngân sách, huyện còn
được vay vốn của Ngân hàng Nhà nước để thực hiện kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản
của huyện và để giải quyết nhu cầu vốn lưu động theo chế độ của Nhà nước.
4. Hàng năm,
căn cứ vào sổ kiểm tra kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa và ngân sách của tỉnh
đã được giao, và căn cứ vào nhiệm vụ phát triển của mỗi ngành, các Sở, Ty
chuyên môn hướng dẫn các ngành ở cấp huyện xây dựng đề án kế hoạch kinh tế và kế
hoạch tài chính, đồng thời cùng Ty tài chính tham gia ý kiến với cấp huyện
trong việc bố trí ngân sách của huyện.
Ủy ban nhân dân huyện theo
phương hướng nhiệm vụ chung của kế hoạch Nhà nước hàng năm và trên cơ sở dự án
kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa của tỉnh, thành phố và kế hoạch phát triển
kinh tế, văn hóa của huyện, lập dự án ngân sách huyện và trình dự án này lên Ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố xét và tổng hợp vào ngân sách tỉnh, thành phố.
5. Ngân sách
huyện được lập theo trình tự sau đây:
a) Các ban, phòng chuyên môn
trên cơ sở nhiệm vụ kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa của huyện và theo sự
hướng dẫn của các Sở, Ty lập dự án kế hoạch tài chính và dự toán chi hành chính
sự nghiệp của các ngành trực thuộc huyện, trình Ủy ban nhân dân huyện sau khi
đã có ý kiến của các Sở, Ty chuyên môn ở cấp tỉnh, để Ủy ban nhân dân huyện tổng
hợp lập dự án ngân sách huyện.
b) Ban tài chính huyện sơ bộ xem
xét các dự án kế hoạch tài chính và các dự toán chi hành chính sự nghiệp của
các ban, phòng chuyên môn ở huyện, tổng hợp thành dự án ngân sách huyện, thống
nhất dự án đó với dự án phát triển kinh tế, văn hóa của huyện và trình Ủy ban
nhân dân huyện thông qua, Ủy ban nhân dân huyện trình dự án ngân sách huyện lên
Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố xét duyệt.
Việc lập ngân sách huyện phải kết
hợp chặt chẽ với việc xây dựng kế hoạch kinh tế-văn hóa-xã hội của huyện, gắn
liền kế hoạch hiện vật với kế hoạch giá trị và kế hoạch tài chính.
Sau khi được Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố xét duyệt, Ủy ban nhân dân huyện trình ngân sách huyện ra Hội đồng
nhân dân huyện thảo luận và thông qua.
6. Hội đồng
nhân dân huyện quyết định ngân sách huyện với tổng số thu có chia ra các khoản
thu chính, và với tổng số chi có chia ra các khoản chi cấp phát cho kinh tế,
văn hóa, xã hội, chi cho bộ máy quản lý Nhà nước cấp huyện, chi trợ cấp cho
ngân sách các xã trong huyện.
7. Trong khi
quyết định ngân sách huyện, Hội đồng nhân dân huyện có thể tăng tổng số thu
ngân sách đã được tỉnh duyệt với điều kiện thu đúng chính sách, chế độ của Nhà
nước và trên cơ sở cải tiến quản lý, khai thác tiềm lực của kinh tế địa phương,
không được thay đổi tỷ lệ điều tiết các khoản thu đã được Ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố xác định; trên cơ sở tăng mức thu ngân sách, Hội đồng nhân dân huyện
có thể tăng tổng số chi ngân sách với điều kiện chi đúng ngân sách, chế độ của
Nhà nước, đúng phương hướng kế hoạch Nhà nước và bảo đảm các mặt cân đối, không
được tăng chi về quản lý hành chính.
Hội đồng nhân dân huyện không được
tự ý đặt ra một khoản thu nào nếu không được Hội đồng Chính phủ cho phép.
8. Ủy ban
nhân dân huyện có nhiệm vụ tổ chức việc chấp hành ngân sách huyện.
Ban tài chính huyện phải lập kế
hoạch thu chi hàng quý (có chia ra từng tháng), phải chấp hành đúng chế độ kế
toán ngân sách và chế độ báo cáo theo đúng quy định của Nhà nước.
Ngân hàng huyện phải tổ chức bộ
phận quản lý quỹ ngân sách Nhà nước và tổ chức kế toán kho bạc theo đúng chế độ
của Nhà nước.
9. Trong quá
trình chấp hành ngân sách:
- Nếu tăng thu đúng chính sách,
chế độ và tiết kiệm chi so với tiêu chuẩn, định mức, thì cấp huyện được quyền
tăng thêm vốn xây dựng cơ bản hoặc ghi thêm những khoản mới chưa dự trù trong kế
hoạch đầu năm, nhưng không được tăng kinh phí quản lý hành chính.
- Nếu thu bị giảm, thì phải điều
chỉnh kế hoạch chi để cân đối lại thu chi ngân sách.
- Nếu không sắp xếp được, thì sử
dụng phí dự bị. Việc sử dụng phí dự bị phải do Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện
quyết định và ký văn bản.
- Nếu sử dụng kinh phí ngân sách
sai chính sách, chế độ, thì coi là vi phạm kỷ luật về quản lý tài chính và bị xử
lý theo luật pháp của Nhà nước.
10. Sau khi
ngân sách huyện đã được phê chuẩn, trong quá trình chấp hành, nếu có trường hợp
Nhà nước thay đổi chủ trương và chính sách làm cho ngân sách huyện phải tăng
chi hoặc giảm thu, thì ngân sách trung ương hoặc ngân sách tỉnh, thành phố bù đắp
các khoản thiếu hụt đó; nếu ngược lại, làm giảm chi hoặc tăng thu, thì số vốn
dôi ra đó phải nộp lên ngân sách tỉnh, thành phố hoặc ngân sách trung ương.
11. Cuối
năm, nếu do tăng cường và cải tiến quản lý mà hoàn thành vượt mức kế hoạch thu
và hoàn thành nhiệm vụ chi nhưng tiết kiệm được kinh phí so với tiêu chuẩn, định
mức và thành tích đó được cấp tỉnh xác nhận thì cấp huyện được giữ lại số thu
trội thêm hoặc số chi tiết kiệm được để làm dự trữ tài chính cho huyện hoặc để
xây dựng những công trình kinh tế, văn hóa, phúc lợi ở địa phương.
Kế hoạch sử dụng khoản dự trữ
tài chính này phải được Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn và báo cáo với Ủy ban
nhân dân tỉnh, thành phố.
Nếu do không hoàn thành nhiệm vụ
kế hoạch xây dựng cơ bản mà còn thừa kinh phí thì số thừa phải ghi vào ngân
sách của năm sau, hoặc nộp trả lại ngân sách tỉnh nếu là trợ cấp xây dựng cơ bản
của ngân sách tỉnh, thành phố.
12. Hàng
năm, Ủy ban nhân dân huyện có nhiệm vụ lập tổng quyết toán ngân sách huyện và
trình Hội đồng nhân dân huyện phê chuẩn rồi gửi lên Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố để lập quyết toán ngân sách tỉnh, thành phố.
Báo cáo tổng quyết toán ngân
sách huyện phải chính xác, trung thực, đúng thời hạn và theo biểu mẫu thống nhất
do Bộ Tài chính quy định.
13. Ủy ban
nhân dân huyện có nhiệm vụ tổ chức việc thanh tra tài chính đối với tất cả các
ngành, các đơn vị do cấp huyện quản lý và đối với cấp xã nhằm thúc đẩy việc chấp
hành nghiêm chỉnh các chính sách, chế độ của Nhà nước, giữ vững kỷ luật về quản
lý tài chính, tiền tệ, giá cả…bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, chống lãng phí,
tham ô.
14. Đối với
ngân sách quận, khu phố trực thuộc ngân sách thành phố, ngân sách thị xã trực
thuộc ngân sách tỉnh, sẽ có quy định riêng.
15. Ngân
sách xã là một cấp ngân sách của hệ thống ngân sách Nhà nước, nhưng tạm thời
chưa tổng hợp thu, chi ngân sách xã vào ngân sách huyện. Các khoản trợ cấp cho
ngân sách xã do ngân sách huyện giải quyết.
Nội dung thu chi của ngân sách
xã và những quy định về lập và chấp hành ngân sách xã ghi trong nghị định số
64-CP ngày 08-04-1972 của Hội đồng Chính phủ được tiếp tục thi hành đối với các
xã thuộc các tỉnh miền Bắc.
Đối với các xã thuộc các tỉnh miền
Nam, Bộ tài chính dựa vào nghị định số 64-CP và thông tư số 196-TTg ngày
08-9-1977 về chính sách, chế độ đãi ngộ cán bộ xã ở các tỉnh, thành phố miền
Nam mà hướng dẫn các tỉnh, thành phố giải quyết các khoản thu chi cho cấp xã
thuộc địa phương.
Chính quyền xã không được tự đặt
ra một khoản thu nào nếu không được Hội đồng Chính phủ cho phép và phải thực hiện
chi theo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước.
III. TỔ CHỨC
THỰC HIỆN
Nghị quyết này thi hành kể từ
năm ngân sách 1978 đối với tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước.
Riêng về cấp huyện, thì được thi
hành đối với các huyện đồng bằng, trung du ở các tỉnh miền Bắc. Đối với các huyện
miền núi ở các tỉnh miền Bắc và các huyện ở các tỉnh miền Nam, cần nghiên cứu,
hướng dẫn cụ thể và làm thử ở một số nơi có điều kiện; sau khi rút được kinh
nghiệm, thì mới mở rộng ra các huyện khác.
Hội đồng Chính phủ giao cho Bộ
Tài chính cùng Ủy ban kế hoạch Nhà nước và Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn việc
thi hành nghị quyết này.
Các Bộ, các cơ
quan ngang Bộ, các Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố phải chỉ đạo các ngành ở địa
phương sắp xếp lại bộ máy, lề lối làm việc và tăng cường cán bộ cho các ngành ở
huyện để thực hiện tốt nghị quyết này.
Bộ Tài chính phải tăng cường bộ
máy thanh tra tài chính từ trung ương đến tỉnh, huyện…, bảo đảm kiểm tra các
ngành, các cấp, các đơn vị thực hiện nhiệm vụ tài chính theo đúng chính sách,
chế độ của Nhà nước.
|
TM.
HỘI ĐỒNG CHÍNH PHỦ
KT. THỦ TƯỚNG CHÍNH PHỦ
PHÓ THỦ TƯỚNG
Lê Thanh Nghị
|