UỶ
BAN XÂY DỰNG CƠ BẢN NHÀ NƯỚC
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
83-UB/VKT
|
Hà
Nội, ngày 24 tháng 4 năm 1985
|
THÔNG TƯ
CỦA UỶ BAN XÂY DỰNG CƠ BẢN NHÀ NƯỚC SỐ 83-UB/VKT NGÀY 24
THÁNG 4 NĂM 1985 HƯỚNG DẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG QUẢN LÝ ĐƠN GIÁ, DỰ TOÁN XÂY LẮP
CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
Thực hiện Nghị quyết của Hội đồng
Bộ trưởng số 166-HĐBT ngày 15-12-1984 về "Cải tiến quản lý xây dựng cơ bản"
và Chỉ thị của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng số 167-CT ngày 28-4-1984 về
"tăng cường quản lý đơn giá, dự toán các công trình xây dựng cơ bản",
sau khi bàn bạc thống nhất với các ngành có liên quan, Uỷ ban Xây dựng cơ bản
Nhà nước hướng dẫn một số biện pháp trước mắt về quản lý đơn giá, dự toán nhằm
tăng cường quản lý vốn đầu tư và tạo điều kiện để các tổ chức xây lắp cơ sở thực
hiện hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa.
I. NHỮNG
NGUYÊN TẮC CHUNG VỀ QUẢN LÝ DỰ TOÁN CÁC CÔNG TRÌNH XÂY DỰNG CƠ BẢN
1. Trong xây dựng cơ bản dự toán
giữ vai trò giá cả của sản phẩm xây dựng, là căn cứ để Nhà nước quản lý vốn đầu
tư và tổ chức xây lắp cơ sở thực hiện hạch toán kinh tế. Vì vậy dự toán các
công trình xây dựng cơ bản phải được quản lý chặt chẽ theo đúng điều lệ quản lý
xây dựng cơ bản ban hành kèm theo Nghị định số 232-CP ngày 6-6-1981 của Hội đồng
Chính phủ và Điều lệ quản lý giá ban hành kèm theo Nghị định số 33-HĐBT ngày
2-2-1981 của Hội đồng Bộ trưởng.
Các công trình thiết kế theo hai
bước thì phải lập tổng dự toán theo thiết kế kỹ thuật và dự toán xây lắp hạng mục
công trình theo thiết kế bản vẽ thi công. Công trình thiết kế một bước thì lập
dự toán xây lắp hạng mục công trình theo thiết kế kỹ thuật thi công và từ đó lập
bản tổng hợp dự toán của toàn bộ công trình.
Tổng dự toán của thiết kế kỹ thuật
được cấp có thẩm quyền xét duyệt là cơ sở để ghi vào kế hoạch vốn đầu tư xây dựng
cơ bản và là căn cứ ký hợp đồng giao thầu và nhận thầu xây lắp toàn bộ công
trình.
Trường hợp thiết kế kỹ thuật được
duyệt nhưng tổng dự toán chưa hoàn chỉnh thì vẫn có thể tiến hành ký kết hợp đồng
xây lắp toàn bộ theo vốn đầu tư ghi trong luận chứng kinh tế - kỹ thuật được
duyệt và sau đó được điều chỉnh hợp đồng theo tổng dự toán chính thức. Chậm nhất
là sau 1/3 thời gian xây dựng công trình chủ đầu tư phải lập và trình duyệt
xong tổng dự toán chính thức của công trình. Những công trình được phép tiến
hành thiết kế kỹ thuật theo đợt hoặc giai đoạn xây dựng, thì tổng dự toán cũng
được lập cho từng đợt hoặc giai đoạn.
Dự toán xây lắp hạng mục công
trình lập theo thiết kế bản vẽ thi công hoặc thiết kế kỹ thuật - thi công (sau
đây gọi tắt là dự toán xây lắp) là căn cứ để lập hoặc điều chỉnh kế hoạch xây lắp
công trình trong kế hoạch xây dựng cơ bản hàng năm và thanh toán sản phẩm xây lắp
hoàn thành giữa chủ đầu tư và tổ chức nhận thầu xây lắp.
Tổng số giá trị dự toán xây lắp
của tất cả các hạng mục công trình cộng với chi phí thiết bị và chi phí kiến
thiết cơ bản khác của công trình không được vượt tổng dự toán được duyệt (kể cả
10% dự phòng). Trường hợp vượt tổng dự toán thì chủ đầu tư phải giải trình để
xin duyệt bổ sung tổng dự toán và điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư (theo mục IV của
Thông tư này).
Để xác định được chi phí xây lắp
hợp lý trong điều kiện xây dựng chưa ổn định hiện nay, việc xác định dự toán
xây lắp được tiến hành theo trình tự sau đây:
a) Lập dự toán theo thiết kế bản
vẽ thi công (hoặc thiết kế kỹ thuật - thi công) do cơ quan thiết kế thực hiện
trong giai đoạn thiết kế.
b) Thống nhất dự toán xây lắp giữa
chủ đầu tư và tổ chức nhận thầu xây lắp trước khi ký kết hợp đồng giao nhận thầu
xây lắp (hoặc hợp đồng khoán gọn).
c) Bổ sung dự toán (nếu có)
trong quá trình xây lắp hoặc khi thanh toán sản phẩm xây lắp hoàn thành.
II. CĂN CỨ DỰ
TOÁN XÂY LẮP
1. Đơn giá xây dựng cơ bản:
a) Nguyên tắc chung là dự toán
các công trình xây dựng phải lập theo đơn giá xây dựng cơ bản khu vực thống nhất
và các hệ số điều chỉnh kèm theo (nếu có) trong từng tỉnh, thành phố và đặc khu
trực thuộc Trung ương (dưới đây gọi tắt là tỉnh) nơi xây dựng công trình do Uỷ
ban Nhân dân các tỉnh ban hành. Các hệ số điều chỉnh đơn giá xây dựng cơ bản
khu vực thống nhất của các tỉnh ban hành để điều chỉnh dự toán phải bảo đảm các
nguyên tắc điều chỉnh đơn giá quy định trong điểm 2 mục V của Thông tư này.
Những công việc chưa có đơn giá
trong bộ đơn giá của tỉnh thì tổ chức thiết kế phải lập đơn giá tạm tính trình
Uỷ ban Xây dựng cơ bản tỉnh (hoặc Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước đối với các
công trình quan trọng của các ngành Trung ương) tạm duyệt để làm căn cứ tính dự
toán.
b) Những công trình xây dựng
theo tuyến đi quan nhiều khu vực đơn giá thì có thể phân đoạn công trình để lập
dự toán theo đơn giá khu vực thống nhất của từng tỉnh hoặc có thể tính theo đơn
giá bình quân của toàn công trình sau khi đã thống nhất với Uỷ ban Xây dựng cơ
bản Nhà nước về phương pháp tính toán đơn giá bình quân đó.
c) Những công trình lớn, có yêu
cầu kỹ thuật phức tạp cần có đơn giá riêng để lập dự toán phải được sự đồng ý của
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước (đối với công trình Trung ương) hoặc Uỷ ban
Nhân dân tỉnh (đối với công trình địa phương). Đơn giá riêng đó được Uỷ ban Xây
dựng cơ bản Nhà nước hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh duyệt và ban hành.
d) Những công trình do nước
ngoài thiết kế mà các tổ chức trong nước đảm nhận việc lập dự toán phải thực hiện
theo đúng các quy định của Nhà nước về lập dự toán.
2. Các khoản mục chi phí trong dự
toán :
Nội dung và các định mức tỷ lệ
cho các khoản mục chi phí trong dự toán áp dụng theo các văn bản hướng dẫn thống
nhất của Nhà nước (các văn bản hiện hành trong phụ lục số 1 kèm theo).
Việc thay đổi, điều chỉnh và bổ
sung nội dung hoặc định mức tỷ lệ của các khoản mục chi phí này do Uỷ ban Xây
dưng cơ bản Nhà nước và các cơ quan tổng hợp của Nhà nước ban hành.
III. NGUYÊN TẮC
THỐNG NHẤT DỰ TOÁN XÂY LẮP GIỮA CHỦ ĐẦU TƯ VÀ TỔ CHỨC NHẬN THẦU XÂY DỰNG
Bảo đảm tính pháp lệnh của kế hoạch
Nhà nước và trách nhiệm của các bên trong việc thực hiện hợp đồng giao nhận thầu
xây lắp công trình, việc bổ sung giá trị dự toán xây lắp trong quá trình thi
công được thực hiện theo những quy định trong Nghị quyết số 166-HĐBT và Điều lệ
quản lý giá của Nhà nước, cụ thể là:
Chủ đầu tư phải giao cho tổ chức
nhận thầu xây lắp hồ sơ thiết kế, dự toán và danh mục vật tư, thiết bị do mình
đảm nhận cung ứng (nếu có) trước khi tiến hành ký hợp đồng giao nhận thầu xây lắp
theo đúng thời hạn được quy định trong Nghị quyết số 166-HĐBT (2 tháng). Trên
cơ sở đó, tổ chức nhận thầu xây lắp được quyền xem xét lại và thống nhất với chủ
đầu tư về dự toán xây lắp công trình theo những nguyên tắc và trên các mặt sau
đây:
1. Bổ sung khối lượng tính thiếu,
tính sai và kiến nghị sửa đổi những giải pháp kết cấu xây dựng không phù hợp với
năng lực thi công của mình. Nếu tổ chức xây lắp có sáng kiến thay đổi thiết kế,
thay đổi vật liệu quý, hiếm mà không ảnh hưởng đến yêu cầu kỹ thuật xây dựng,
chất lượng công trình và tiến độ thi công, được cơ quan thiết kế và chủ đầu tư
chấp nhận thì được hưởng toàn bộ số tiền tiết kiệm được.
2. Sửa đổi các đơn giá áp sai và
các khoản chi phí khác tính không đúng quy định của Nhà nước.
3. Đề xuất thay đổi các biện
pháp thi công do cơ quan thiết kế lập cho phù hợp với điều kiện thi công cụ thể
của công trình và được điều chỉnh chi phí theo đơn giá phù hợp với biện pháp
thi công mới sau khi đã thống nhất với cơ quan thiết kế và chủ đầu tư.
Trường hợp đơn vị nhận thầu xây
lắp phải thuê thiết bị thi công của các tổ chức xây lắp khác thì chi phí thuê
máy được tính toán theo hướng dẫn của Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước.
4. Đề xuất việc điều chỉnh chi
phí vật liệu trong dự toán do cơ quan thiết kế lập cho phù hợp với điều kiện sản
xuất và cung cấp vật liệu cụ thể của công trình. Tổ chức xây lắp căn cứ vào chỉ
tiêu kế hoạch vật tư của Nhà nước cấp cho công trình, dự kiến những thay đổi về:
nguồn cung ứng, số lượng cấp không đủ... mà đơn vị phải tự tìm kiếm và những
thay đổi khác về giá để bổ sung trực tiếp cho từng loại vật liệu trong dự toán
hoặc có thể tính trước thành hệ số điều chỉnh chi phí vật liệu, trình cơ quan
quản lý đơn giá xây dựng cơ bản xét duyệt để thống nhất giá dự toán giao nhận
thầu.
Việc điều chỉnh bổ sung chi phí
vật liệu theo các nguyên tắc sau đây:
a. Đối với việc thay đổi nguồn
cung cấp vật tư vật liệu và thay đổi khung giá.
Khi nhận được chỉ tiêu phân phối
theo kế hoạch Nhà nước mà địa điểm cung ứng vật tư, vật liệu trái với nguồn
cung ứng đã được quy định trong đơn giá khu vực thống nhất và đơn giá công
trình thì được bổ sung chi phí tăng thêm cho khối lượng vật liệu phải nhận trái
nguồn.
Trường hợp các cơ quan có thẩm
quyền thay đổi khung giá vật tư vật liệu thì được bổ sung giá trị dự toán xây lắp
theo giá thực mua trong khung giá mới.
b. Đối với giá vật liệu
- Những vật liệu do Nhà nước thống
nhất quản lý và phân phối (xi măng, sắt thép, gỗ, xăng dầu, than, nhựa đường
v.v...) thì tính theo giá bán buôn vật tư của Nhà nước. Trường hợp đặc biệt, tổ
chức cung ứng không giao vật liệu đúng địa điểm được cơ quan cấp trên của tổ chức
cung ứng đó xác nhận bằng văn bản thì tổ chức xây lắp được nhận khoản trừ lùi
phí lưu thông theo Chỉ thị số 94-CT ngày 6-4-1983 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng.
Phần chênh lệch giữa phí lưu thông được trừ lùi nhận từ tổ chức cung ứng với
phí lưu thông thực tế của tổ chức xây lắp do phải thay đổi phương tiện và cự ly
vận chuyển xa hơn được bù theo khối lượng vật liệu thực tế đã nhận và được bổ
sung vào dự toán xây lắp.
- Những vật tư, vật liệu do Nhà
nước hoặc Nhà nước phân cấp cho các ngành và địa phương cân đối và cung ứng
theo kế hoạch (gạch chỉ, ngói, cát đen, cát vàng, đá hộc, đá dăm, vôi...) thì
tính theo giá chỉ đạo do các cơ quan quản lý giá có thẩm quyền quy định. Trường
hợp chưa có giá chỉ đạo thì tính theo giá tạm tính của cơ quan cung ứng vật tư,
vật liệu theo Điều lệ quản lý giá. Phần vật tư, vật liệu không được cân đối đầy
đủ hoặc cơ quan cung ứng không đảm bảo cung ứng đủ số lượng và đúng thời gian
theo chỉ tiêu kế hoạch thì căn cứ xác nhận của cơ quan kế hoạch ngành, địa
phương hoặc của cơ quan cấp trên của tổ chức cung ứng và tính theo giá thực mua
ghi trong hợp đồng kinh tế với các đơn vị liên doanh liên kết (theo khung giá
do cơ quan có thẩm quyền quy định).
- Những vật tư, vật liệu được
cân đối một phần hoặc không cân đối trong kế hoạch và những vật liệu tự tìm kiếm
khác (Gạch trang trí, tiểu ngũ kim, thiết bị vệ sinh, bột màu, đá chẻ, đá mạt,
ngói âm dương...) thì tính theo giá thực mua trong khung giá do các cơ quan có
thẩm quyền quyết định.
- Những vật liệu chủ yếu do các
tổ chức xây lắp tự sản xuất tại chỗ để xây dựng công trình (gạch, đá, cát, sỏi,
vôi... )thì được tính theo đơn giá vật liệu đến chân công trình (bao gồm giá gốc
và chi phí vận chuyển) trong đơn giá khu vực thống nhất. Trường hợp giá các loại
vật liệu tự sản xuất này cao hơn giá vật liệu đến chân công trình thì phải được
cơ quan quản lý giá có thẩm quyền quy định.
- Những vật liệu phải mua của
dân (tranh, tre, nứa, lá, rơm, phân hữu cơ...) thì tính theo giá của địa
phương.
5. Đối với công trình thực hiện
chế độ tổng nhận thầu xây lắp, tổ chức đảm nhận nhiệm vụ tổng nhận thầu xây lắp
được tính thêm chi phí tổng nhận thầu xây lắp, bao gồm 0,5% tính trên giá trị của
những khối lượng xây lắp giao thầu lại và 5% tính trên chi phí tiếp nhận vận
chuyển và bảo quản vật tư thiết bị mà tổ chức tổng nhận thầu xây lắp đảm nhận.
Chi phí tổng nhận thầu xây lắp nêu trên được tính thành một khoản riêng ngoài
giá trị dự toán xây lắp và chủ đầu tư phải đưa chi phí này vào phần chi phí của
Ban quản lý công trình trong tổng dự toán xây dựng công trình.
6. Trong trường hợp khoán gọn
công trình (hạng mục công trình) thì có thể dựa trên dự toán xây lắp đã được thống
nhất theo các nguyên tắc nêu trên và tính thêm chi phí dự kiến những biến động
không lường trước trong quá trình thực hiện theo quy định của quy chế khoán sản
phẩm trong xây dựng cơ bản. Trong trường hợp này, giá khoán chỉ thay đổi khi
Nhà nước thay đổi giá cả và tiền lương hoặc phải bổ sung thiết kế làm thay đổi
số lượng và chất lượng xây lắp so với điều kiện giao khoán ban đầu.
IV. NGUYÊN TẮC
BỔ SUNG GIÁ TRỊ DỰ TOÁN XÂY LẮP TRONG QUÁ TRÌNH THI CÔNG
Giá dự toán xây lắp đã thống nhất
giữa chủ đầu tư và tổ chức xây lắp sau khi được duyệt là căn cứ để ký kết hợp đồng
thi công xây lắp và thanh toán.
Trường hợp đặc biệt trong quá
trình thi công có những chi phí phát sinh chưa tính được khi thống nhất dự toán
xây lắp hoặc chưa tính trong hệ số điều chỉnh đơn giá thì phải báo cáo cơ quan
quản lý đơn giá xây dựng cơ bản xét giải quyết việc bù theo khối lượng thực tế
khi thanh toán khối lượng xây lắp hoàn thành.
1. Đối với đơn giá công tác xây
lắp tạm tính
Nếu trong quá trình thi công đơn
giá tạm tính trong dự toán xây lắp do cơ quan thiết kế lập chưa phù hợp thì tổ
chức xây lắp cùng với chủ đầu tư và Ngân hàng đầu tư và xây dựng tính toán lại
những đơn giá đó để trình cơ quan quản lý đơn giá xây dựng cơ bản xét điều chỉnh.
2. Đối với vật liệu
Chi phí vật liệu trong dự toán
xây lắp chỉ được bổ xung điều chỉnh khi Nhà nước thay đổi giá cả và nguồn cung
cấp vật liệu không đúng với quy định trong đơn giá xây dựng cơ bản và dự toán
xây lắp đã duyệt.
Việc bổ sung, điều chỉnh này phải
đúng quy định ở điểm 4 phần III của Thông tư này.
3. Đối với tiền lương:
Chi phí tiền lương trong dự toán
xây lắp công trình xây dựng chỉ được bổ sung điều chỉnh khi Hội đồng Bộ trưởng
hoặc các cơ quan chức năng Nhà nước có thẩm quyền quyết định sửa đổi bổ sung
các chế độ tiền lương, tiền thưởng.
Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước
sẽ có hướng dẫn thống nhất việc áp dụng đối với từng quyết định cụ thể liên
quan đến chế độ tiền lương, tiền thưởng trong xây dựng cơ bản.
Trong khi Nhà nước chưa cải tiến
tiền lương, đối với một số công trình xây dựng trọng điểm của ngành và địa
phương, nếu có yêu cầu bức thiết phải đẩy nhanh tiến độ thi công đưa nhanh công
trình vào sản xuất, sủ dụng để sớm phát huy hiệu quả thì chủ tư cần bàn bạc thống
nhất với Bộ Lao động, Bộ Tài chính trình Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng cho phép
điều chỉnh đơn giá nhân công trong dự toán.
Đối với những công trình xây dựng
cho cơ quan nước ngoài đóng trên đất nước ta hoặc ở ngoài nước tính theo quy định
riêng của Nhà nước.
Trường hợp lực lượng xây lắp quốc
doanh không đảm nhận được xây lắp các công trình trong kế hoạch Nhà nước, tổng
thầu hoặc chủ đầu tư được phép thuê khoán nhân công của các hợp tác xã, hoặc sử
dụng lao động hợp đồng. Chi phí tiền lương khoán cho lực lượng này được xác định
theo đơn giá tiền lương đối với lực lượng quốc doanh và tính thêm khoản bù các mặt
hàng cung cấp theo định lượng ở từng tỉnh và thành phố, và các chế độ bảo hiểm
xã hội chung của Nhà nước. Chủ đầu tư phải sử dụng các khoản chi phí khác trong
dự toán (trực tiếp phí khác, phụ phí thi công, v.v...) để bù đắp các khoản
chênh lệch này, bảo giá trị dự toán xây lắp công trình không vượt quá dự toán
được duyệt theo quy định hiện hành của Nhà nước. Trường hợp đặc biệt cần tăng vốn
xây lắp của công trình thì chủ đầu tư phải giải trình và được chủ quản đầu tư
xét duyệt khoản tăng đó trước khi khởi công xây dựng công trình (trong giới hạn
vốn được sử dụng).
4. Đối với việc bổ sung thiết kế
Để nâng cao chất lượng thiết kế,
hạn chế việc sửa đổi thiết kế tuỳ tiện làm tăng chi phí và gây trở lại cho quá
trình xây lắp, các cơ quan xét duyệt thiết kế chỉ chấp nhận những thay đổi có
căn cứ chính đáng và chủ đầu tư thống nhất với tổ chức nhận thầu xây lắp và các
thay đổi đó. Chi phí cho khối lượng tăng thêm do thay đổi thiết kế được bổ sung
vào dự toán.
V. PHƯƠNG THỨC
ĐIỀU CHỈNH BỔ SUNG DỰ TOÁN
Việc điều chỉnh bổ sung dự toán
xây lắp do Nhà nước thay đổi giá vật liệu, tiền lương, thay đổi nguồn cung ứng
vật liệu hoặc thay đổi khung giá và do bổ sung thiết kế đã nói trên đây được tiến
hành theo các phương thức sau:
1. Khi đã xác định những trường
hợp cần bổ sung dự toán trước lúc khởi công xây dựng công trình, thì tổ chức
xây lắp thống nhất với chủ đầu tư đưa những khoản cần bổ sung đó vào dự toán
khi thống nhất giá dự toán xây lắp công trình. Những chi phí phát sinh trong
quá trình thi công được bù theo khối lượng thực tế khi thanh toán khối lượng
xây lắp hoàn thành. Chủ đầu tư có trách nhiệm theo dõi và tổng hợp các khoản bù
chênh lệch này để làm thủ tục bổ sung dự toán.
2. Từng thời kỳ, căn cứ vào những
yếu tố biến động hợp lý hợp pháp và có tính phổ biến và thay đổi giá vật tư, vật
liệu (theo các quyết định của các cơ quan có thẩm quyền ban hành giá) Uỷ ban
xây dựng cơ bản tỉnh, thành phố tính toán hệ số điều chỉnh đơn giá khu vực thống
nhất theo phương pháp do Uỷ ban Xây dưng cơ bản Nhà nước hướng dẫn và thoả thuận
với Uỷ ban Xây dựng cơ bản Nhà nước trước khi trình Uỷ ban Nhân dân tỉnh ban
hành.
Trước mắt, các tỉnh cần làm việc
với Uỷ ban Vật giá Nhà nước để thống nhất mức giá, khung giá các loại vật liệu
do địa phương sản xuất như: gạch chỉ, đá dăm, cát đen, cát vàng, vôi v.v...
trên cơ sở đó tính toán và ban hành hệ số điều chỉnh đơn giá khu vực thống nhất
đã được xây dựng theo hệ thống giá năm 1982 đưa về mặt hàng giá đầu năm 1985 để
làm căn cứ xác định vốn đầu tư và điều chỉnh dự toán cho khối lượng xây lắp thực
hiện từ 1-1-1985. Những hệ số điều chỉnh đơn giá khu vực thống nhất nêu trên được
đưa vào dự toán xây lắp do cơ quan thiết kế lập. Khi thống nhất dự toán giữa chủ
đầu tư và tổ chức nhận thầu xây lắp, cũng như khi bổ sung dự toán trong quá
trình thi công không được tính những thay đổi giá vật tư, vật liệu đã được đưa
vào hệ số điều chỉnh đơn giá.
3. Việc điều chỉnh chi phí nhân
công, chi phí sử dụng máy thi công theo sự hướng dẫn thống nhất của Uỷ ban Xây
dựng cơ bản Nhà nước.
4. Đối với các công trình độc lập
đơn giá riêng, việc bổ sung dự toán, điều chỉnh đơn giá, bù chênh lệch vật liệu
do các cơ quan quản lý đơn giá (Uỷ ban Xây dựng cơ bản tỉnh hoặc Uỷ ban Xây dựng
cơ bản Nhà nước đối với công trình quan trọng) xem xét và giải quyết .
5. Chi phí xây lắp tăng thêm do
các khoản bổ sung dự toán đã kể trên, sử dụng trong nguồn kinh phí dự phòng của
công trình; nếu vượt quá tổng số vốn đầu tư (kể cả kinh phí dự phòng) được duyệt
thì chủ đầu tư phải giải trình xin điều chỉnh vốn.
Trường hợp Nhà nước thay đổi hệ
thống giá cả, thay đổi chế độ tiền lương thì vốn đầu tư của các công trình sẽ được
điều chỉnh riêng theo hướng dẫn thống nhất của Nhà nước. Khi có thay đổi lớn về
thiết kế thì vốn đầu tư, tổng dự toán và dự toán xây lắp các hạng mục công
trình phải được xét duyệt lại cùng với việc xét duyệt lại thiết kế của công
trình.
VI. TỔ CHỨC THỰC
HIỆN
1. Quản lý đơn giá, dự toán xây
dựng trong điều kiện giá cả còn chưa ổn định là công việc rất phức tạp. Yêu cầu
chung là phải tính đúng, tính đủ những chi phí phát sinh hợp lý để thúc đẩy sản
xuất, đồng thời phải giữ nghiêm kỷ luật giá của Nhà nước. Vì vậy đề nghị các
ngành, địa phương tăng cường công tác công tác thẩm tra, xét duyệt dự toán theo
đúng Nghị quyết 166-HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và Chỉ thị 167-CT của Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng. Đối với những công trình nhỏ, đơn giản, các ngành và địa
phương cần quy định mức giá tối đa cho 1 đơn vị diện tích hoặc chiều dài (như m2
nhà cấp bốn, mét dài đường nông thôn v.v...) làm căn cứ để cấp dưới xét duyệt
theo quy định phân cấp của ngành và địa phương.
Khi giao kế hoạch xây dựng cơ bản
cho đơn vị trực thuộc đề nghị các ngành, địa phương quy định rõ danh mục, số lượng
vật tư, vật liệu được cân đối để Ngân hàng đầu tư và xây dựng và cơ quan quản
lý xây dựng cơ bản có căn cứ theo dõi giải quyết việc điều chỉnh và bổ sung dự
toán.
2. Trong quá trình thực hiện, nếu
gặp khó khăn và vướng mắc đề nghị các ngành, địa phương phản ánh kịp thời cho Uỷ
ban Xây dựng cơ bản Nhà nước để cùng phối hợp nghiên cứu giải quyết.