CHỈ THỊ
VỀ
VIỆC VẬN DỤNG CHÍNH SÁCH GIÁ BÁN LẺ TRONG THỜI GIAN TỚI.
Thực hiện Nghị quyết của Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá V) và Nghị quyết số 28-NQ-TW ngày
10-8-1985 của Bộ Chính trị về việc phê chuẩn các phương án giá và lương Hội
đồng Bộ trưởng đã ra quyết định số 244-HĐBT ngày 20-9-1985 về giá bán lẻ hàng
tiêu dùng thiết yếu, cước vận tải hành khách và cước Bưu điện. Chủ tịch Hội
đồng Bộ trưởng lưu ý các Bộ, Tổng cục có liên quan và Uỷ ban Nhân dân các cấp
nắm vững và thực hiện đúng những nguyên tắc chỉ đạo giá bán lẻ dưới đây:
1. Các ngành, các cấp có trách nhiệm
lập phương án giá bán lẻ cũng như phê chuẩn giá bán lẻ (theo sự phân công phân
cấp quy định trong Điều lệ quản lý giá) phải bảo đảm tính đủ các chi phí thực
sự cần thiết dựa trên các định mức hợp lý về tiêu hao vật tư, lao động, tiền vốn,
loại trừ các chi phí bất hợp lý ra khỏi giá thành và phí lưu thông và phải bảo
đảm cho các xí nghiệp và ngân sách Nhà nước nói chung có mức tích luỹ cần
thiết. Việc bù lỗ giá bán lẻ chỉ áp dụng cho một số mặt hàng loại đặc biệt chủ
yếu để thực hiện chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước và tuỳ theo mặt hàng,
phải do Hội đồng Bộ trưởng hoặc Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố quyết định. Khi
định giá bán lẻ các hàng hoá và dịch vụ, ngoài việc tính đúng và đủ giá vốn,
còn phải tính đến quan hệ cung cầu trên thị trường, sức mua có khả năng thanh
toán của các tầng lớp dân cư; phải bảo đảm tương quan hợp lý giữa tổng mức giá
bán lẻ hàng lương thực, thực phẩm, hàng công nghiệp tiêu dùng và dịch vụ với
tiền lương của công nhân, viên chức, tiền công của thợ thủ công, giá thu mua
nông, lâm, thuỷ sản và thu nhập của các tầng lớp dân cư khác.
Sử dụng công cụ giá cả phải kết hợp
với tăng cường cải tạo quản lý thị trường, loại trừ các hoạt động đầu cơ, buôn
lậu, kinh doanh trái phép, thực hiện chủ trương Nhà nước độc quyền kinh doanh
đối với các loại hàng do Nhà nước thống nhất quản lý, phát triển mạnh thương
nghiệp xã hội chủ nghĩa (cả quốc doanh và tập thể), chuyển hẳn hoạt động của
thương nghiệp quốc doanh sang hạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa,
tổ chức hợp lý lưu thông hàng hoá, phấn đấu hạ thấp chi phí lưu thông.
2. Để thực hiện chính sách một giá
bán lẻ đối với tất cả các đối tượng tiêu dùng, giá bán lẻ của Nhà nước trong
từng thời gian nhất định phải được điều chỉnh cho sát hợp với tình hình sản
xuất và tình hình thị trường.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước phải cùng
các ngành có liên quan và các địa phương nghiên cứu trình Hội đồng Bộ trưởng
quyết định điều chỉnh sự phân công, phân cấp quản lý giá bán lẻ cho thích hợp
với tình hình mới theo nguyên tắc: hàng hoá lưu thông trong phạm vi cả nước,
hàng thiết yếu đối với đời sống của các tầng lớp dân cư, hàng Nhà nước độc
quyền kinh doanh thì do Trung ương quyết định giá; hàng sản xuất và lưu thông
chủ yếu trong phạm vi từng địa phương thì do Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố,
đặc khu quyết định giá dưới sự quản lý thống nhất của Trung ương về nguyên tắc
chính sách giá; phân cấp cho các cơ sở sản xuất kinh doanh định giá bán lẻ một
số mặt hàng phù hợp với yêu cầu chủ động sản xuất kinh doanh, tự chủ tài chính,
tự chịu trách nhiệm về lỗ lãi của đơn vị cơ sở.
Đối với những mặt hàng do Trung ương
định giá thì dù do địa phương sản xuất hay nhập khẩu, đều phải bán ra theo mức
giá do Trung ương quy định.
3. Trước mắt, trong khi các ngành,
các cấp đang tiến hành các biện pháp sắp xếp tổ chức lại sản xuất và lưu thông,
phấn đấu hạ giá thành và phí lưu thông nhằm đáp ứng yêu cầu của việc thực hiện
chính sách giá mới, Hội đồng Bộ trưởng quy định cách xử lý một số trường hợp cụ
thể khi công bố giá bán lẻ mới như sau:
a) Đối với những mặt hàng tiêu dùng
và dịch vụ thiết yếu thuộc chính sách xã hội như giấy viết học sinh, sách giáo
khoa, sản phẩm cơ khí và kim khí phục vụ sản xuất nông nghiệp, quan tài... thì
ngân sách Nhà nước (trung ương và địa phương) chủ động bù lỗ để bán ra theo mức
giá do Trung ương quy định. Các ngành, các cơ sở sản xuất kinh doanh các mặt
hàng và dịch vụ này phải ra sức phấn đấu để giảm dần, tiến tới xoá bù lỗ của
ngân sách. Mức bù lỗ phải được xem xét một cách chặt chẽ trên cơ sở giá thành
sản xuất và phí lưu thông hợp lý.
b) Đối với gạo: Hội đồng Bộ trưởng
giao cho Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu trực thuộc trung ương định
giá bán lẻ gạo ở địa phương dựa trên các yếu tố hình thành giá như sau:
- Giá mua thóc bình quân ở địa phương
do Hội đồng Bộ trưởng quy định.
- Tỷ lệ thu hồi gạo từ thóc xay
ra.
Chi phí xay xát hợp lý và chi phí
lưu thông hợp lý trên địa bàn huyện, trừ giá trị các phụ phẩm thu được trong
quá trình xay xát (giá trị các phụ phẩm này phải được tính đúng và đủ). ở các
thành phố, thị xã, có thể định mức chi phí lưu thông cao hơn các huyện do phải
vận chuyển từ các vùng nông thôn về, nhưng nói chung, không chấp nhận chi phí
lưu thông cao đến mức đẩy giá bán lẻ gạo cao hơn giá thu mua thóc quy ra gạo ở
địa phương. Nếu chi phí lưu thông quá cao mà tạm thời chưa hạ xuống được thì
ngân sách phải tạm thời bù lỗ.
Giá gạo của cấp I giao cho các tỉnh,
thành phố, đặc khu là giá bán lẻ gạo ở địa phương đó, trừ lùi chiết khấu thương
nghiệp cấp 2. Trường hợp cấp I bị lỗ do phải vận tải từ xa đến thì ngân sách Trung
ương bù lỗ, Bộ Lương thực phải chỉ đạo toàn ngành tổ chức lại lưu thông cho hợp
lý nhằm hạ thấp chi phí lưu thông, giảm bù lỗ của ngân sách.
Các địa phương giao nộp lương thực
(cũng như các nông, lâm, thuỷ sản khác) cho Trung ương theo giá mua bình quân do
Hội đồng Bộ trưởng quy định cho địa phương, cộng thêm chi phí thu mua hợp lý.
Địa phương thừa lương thực nhượng lại cho địa phương thiếu cũng theo giá đó,
Nhà nước (cả trung ương và địa phương) không chủ trương tích luỹ qua giá lương
thực.
c) Đối với các loại thực phẩm thiết
yếu như thịt lợn, cá, nước mắm, rau...; Hội đồng Bộ trưởng giao cho Uỷ ban Nhân
dân tỉnh, thành phố, đặc khu quy định giá bán lẻ tại địa phương trên nguyên tắc:
- Giá bán lẻ phải bù đắp chi phí
mua nông sản, hải sản, chi phí chế biến và chi phí lưu thông hợp lý trên địa bàn
tỉnh, thành phố, đặc khu. Nhà nước nói chung không tích luỹ, cũng không bù lỗ.
- Giá bán lẻ của Nhà nước phải có
tác dụng bình ổn giá thị trường, không đẩy giá mua nông sản, hải sản lên.
Uỷ ban Nhân dân các thành phố, thị
xã, thị trấn cần có biện pháp giúp đỡ, khuyến khích các hợp tác xã nông nghiệp,
các hợp tác xã mua bán đem sản phẩm của mình (như rau, quả, gà, vịt, trứng...)
từ các vùng nông thôn vào thành phố, thị xã, thị trấn trực tiếp bán lẻ, qua đó
mà tăng lượng hàng thực phẩm trên thị trường, giảm tỷ lệ hư hao, và chi phí lưu
thông các mặt hàng thực phẩm, nhất là thực phẩm tươi sống.
Riêng đối với thịt lợn, thịt trâu,
bò là những mặt hàng Nhà nước thống nhất quản lý và kinh doanh, thương nghiệp
xã hội chủ nghĩa phải mở rộng thu mua nắm nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu của
nhân dân, nhất là ở các thành phố, thị xã, không để tư nhân tiếp tục buôn bán.
Cần nhanh chóng chấn chỉnh các Công
ty và cửa hàng thực phẩm nhằm quốc doanh theo hướng: tăng doanh số, kinh doanh
tổng hợp, giảm tỷ lệ hư hao và chi phí lưu thông, tăng cường khai thác các
nguồn hàng thực phẩm ở các vùng sản xuất tập trung để đưa về thành phố, đẩy mạnh
việc chế biến và bảo quản dự trữ thực phẩm... qua đó mà hạ giá bán lẻ.
Riêng đối với các thành phố lớn,
các khu công nghiệp tập trung và một số tỉnh miền núi, Tây Nguyên, Bộ Nội thương
và Bộ Thuỷ sản cần cùng với Uỷ ban Nhân dân địa phương xác định lượng thực phẩm
phải điều động từ các nơi khác về để cân đối với nhu cầu bán ra (trong này có
tính phần cần thiết để dự trữ thời vụ) với giá hợp lý. Nếu vì phải vận chuyển
xa, giá vốn kinh doanh lên quá cao ảnh hưởng đến giá các mặt hàng tương tự sản
xuất tại địa phương thì Bộ Tài chính xem xét, bù lỗ.
d) Đối với các mặt hàng không thuộc
loại thiết yếu, chế biến từ nguyên liệu nông, lâm, thuỷ sản (như rượu, nước giải
khát, bánh kẹo...) thì tuỳ theo giá vốn và sức mua mà định giá hợp lý cho từng
khu vực để có thể bán lẻ bình thường theo một giá bảo đảm cho Nhà nước có tích
luỹ và chí ít không lỗ. Trường hợp kinh doanh các loại hàng này còn lỗ thì phải
nghiên cứu ngay việc tổ chức, sắp xếp lại sản xuất và lưu thông để kinh doanh
không lỗ và dần dần có tích luỹ cho ngân sách (trung ương hoặc địa phương); Nhà
nước nhất thiết không bù lỗ cho những mặt hàng này.
đ) Đối với các mặt hàng công nghiệp
tiêu dùng do các xí nghiệp công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp sản xuất thì
phải nghiên cứu kỹ nhu cầu và sức mua của thị trường để định mức giá bán lẻ hợp
lý. Nếu trước mắt giá vốn còn cao hơn khả năng chấp nhận của xã hội thì phải có
phương án cụ thể về sản xuất, về lưu thông, áp dụng mọi biện pháp (kể cả việc
sắp xếp, tổ chức lại sản xuất, thay đổi quy cách mặt hàng, nâng cao chất lượng
sản phẩm, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, tổ chức nguồn hàng hợp lý, cải tiến
phân phối...) để có giá vốn và giá bán hợp lý. Trong khi chờ đợi thực hiện các
biện pháp trên, riêng đối với một số mặt hàng rất cần thiết cho đời sống của
nhân dân thì Nhà nước tạm thời có thể bù lỗ trong một thời gian nhất định. Việc
bù lỗ này do Hội đồng Bộ trưởng (đối với các xí nghiệp trung ương) hoặc do Uỷ
ban Nhân dân tỉnh, thành phố, đặc khu (đối với các xí nghiệp địa phương) quyết
định.
e) Đối với một số rất ít mặt hàng
thiết yếu do trung ương định giá thống nhất cho cả nước, nhưng xét tình hình
cung cầu ở địa phương còn căng thẳng (như dầu hoả, xi măng, xăng...) nếu xét
tạm thời cần định giá bán khác nhau cho một sản phẩm, thì địa phương phải báo
cáo xin ý kiến Hội đồng Bộ trưởng và có biện pháp quản lý chặt chẽ, định phương
thức bán thích hợp, đi đôi với việc tăng cường quản lý thị trường để không bị
đầu cơ lợi dụng, và phải kết hợp các biện pháp kinh tế, hành chính, giáo dục,
tích cực phấn đấu tiến tới thực hiện cơ chế một giá.
4. Các ngành, các cấp phải nghiêm
chỉnh chấp hành chính sách giá của Đảng và Nhà nước, chỉ đạo thực hiện đúng hệ
thống giá Nhà nước mới ban hành, tuyệt đối không được tự tiện thay đổi những
mức giá do Trung ương định và ra sức phấn đấu để ổn định thị trường về giá cả,
cố gắng đến mức cao nhất giữ hệ thống giá Nhà nước. Phải đề cao việc chấp hành
kỷ luật về giá cả, thực hiện nghiêm túc chế độ niêm yết giá đối với quốc doanh,
tập thể và tư nhân, kiểm tra việc bán theo giá niêm yết, kiên quyết xử lý theo
pháp luật những trường hợp vi phạm kỷ luật giá.
5. Nhận được quyết định của Hội đồng
Bộ trưởng về giá bán lẻ hàng tiêu dùng thiết yếu, cước vận tải hành khách và
cước bưu điện, chỉ thị này, các Bộ, Tổng cục có liên quan và Uỷ ban Nhân dân các
cấp cần soát xét lại giá bán lẻ các mặt hàng tại địa phương, điều chỉnh lại mức
giá (có thứ đưa lên, có thứ đưa xuống) cho phù hợp với chính sách giá và mức
giá do Trung ương quy định.
Uỷ ban Vật giá Nhà nước hướng dẫn
và kiểm tra các ngành, các cấp thực hiện đúng chính sách giá và mức giá do Trung
ương quy định.