TOÀ
ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO
********
|
CỘNG
HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
********
|
Số:
11-KHXX
|
Hà
Nội, ngày 23 tháng 1 năm 1996
|
CÔNG VĂN
CỦA TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO SỐ 11 -KHXX NGÀY
23 THÁNG 1 NĂM 1996 HƯỚNG DẪN PHÁP LỆNH THỦ TỤC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN KINH TẾ
Kính
gửi:
|
- Các Toà án nhân dân
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
- Các Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
|
Qua hơn một năm thực
hiện nhiệm vụ xét xử các vụ án kinh tế thuộc thẩm quyền, Toà án nhân dân các cấp
đã có nhiều cố gắng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết tốt những tranh
chấp kinh tế, góp phần ổn định trật tự sản xuất kinh doanh và củng cố việc sản
xuất kinh doanh tuân theo các quy định của pháp luật. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng
pháp luật cũng còn những vướng mắc, nhất là khi pháp luật chưa thống nhất, nhiều
văn bản có những quy định không còn phù hợp nhưng chưa được sửa đổi, bổ sung,
do đó dẫn đến cách hiểu và áp dụng khác nhau nên một số vụ án phải giải quyết
nhiều lần, tính thuyết phục không cao, nhiều Toà án địa phương đã có văn bản phản
ánh những vấn đề vướng mắc về thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà
án nhân dân, cũng như một số vướng mắc khác trong việc thụ lý giải quyết các vụ
án kinh tế. Để việc áp dụng pháp luật được đúng đắn và thống nhất, Toà án nhân
dân tối cao hướng dẫn việc áp dụng pháp luật để giải quyết các vấn đề đó như
sau:
1.Về
thẩm quyền giải quyết các vụ án kinh tế của Toà án nhân dân
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì chỉ có những hợp đồng được
ký giữa pháp nhân với pháp nhân hoặc giữa pháp nhân với cá nhân có đăng ký kinh
doanh theo quy định của pháp luật mới được coi là hợp đồng kinh tế. Theo quy định
tại khoản 2 Điều 1 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16 -1 -1990 của
Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh hợp
đồng kinh tế thì: cá nhân có đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật là
người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng ký kinh doanh tại cơ quan có
thẩm quyền theo đúng quy định về đăng ký kinh doanh. Như vậy, pháp luật đã quy
định rõ, chủ thể của hợp đồng kinh tế ít nhất phải có một trong các bên là pháp
nhân, bên là cá nhân phải là người đã được cấp giấy phép kinh doanh và đã đăng
ký tại cơ quan có thẩm quyền (trước đây là Trọng tài kinh tế, hiện nay là Uỷ
ban kế hoạch). Ngoài ra, theo quy định tại khoản 1 Điều 57 Pháp
lệnh Hợp đồng dân sự (29-4-1991) thì cá nhân có đăng ký kinh doanh mà không
phải là doanh nghiệp tư nhân theo quy định của Luật doanh nghiệp tư nhân, dù họ
có ký hợp đồng với mục đích sản xuất kinh doanh, thì đó cũng chỉ là hợp đồng
dân sự chứ không phải là hợp đồng kinh tế. Hướng dẫn của Toà án nhân dân tối
cao tại Công văn số 442/KHXX ngày 18-7-1994 là đúng, hướng dẫn về thẩm quyền tại
Thông tư số 11-TT/PL ngày 25-5-1992 của Trọng tài kinh tế Nhà nước hướng dẫn ký
kết và thực hiện hợp đồng kinh tế nay không còn phù hợp nên không áp dụng vào
việc thụ lý và giải quyết các vụ án kinh tế nữa. Các tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng có mục đích kinh doanh giữa các doanh nghiệp tư nhân với nhau thuộc thẩm
quyền giải quyết của Toà án nhân dân theo thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
Tuy nhiên, nếu Toà án nhân dân giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án
kinh tế mà về nội dung đã được giải quyết đúng, thì không cần thiết huỷ bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật vì lý do không đúng thẩm quyền, trừ trường
hợp Viện kiểm sát kháng nghị về mặt thủ tục tố tụng hoặc đương sự khiếu nại gay
gắt yêu cầu được giải quyết đúng thẩm quyền.
2.
Về hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh do chi nhánh của pháp nhân giao kết
Trong trường hợp
chi nhánh của pháp nhân giao kết hợp đồng với một bên khác, khi xảy ra tranh chấp,
Toà án cần phân biệt các trường hợp sau đây:
a) Nếu chi nhánh
được sự uỷ quyền hợp pháp của người đứng đầu pháp nhân ký hợp đồng có mục đích sản
xuất, kinh doanh thì đó là hợp đồng kinh tế hợp pháp, khi xảy ra tranh chấp thì
Toà án nhân dân giải quyết theo thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
b) Nếu chi nhánh
nhân danh pháp nhân ký hợp đồng mà không được sự uỷ quyền hợp pháp của người đứng
đầu pháp nhân, thì hợp đồng đó là vô hiệu theo quy định tại điểm
c khoản 1 Điều 8 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, và khi xảy ra tranh chấp thì
Toà án nhân dân giải quyết theo pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế.
c) Nếu chi nhánh
không nhân danh pháp nhân mà tự mình giao kết hợp đồng thì đó chỉ là hợp đồng
dân sự. Mọi tranh chấp phát sinh từ hợp đồng này do Toà án nhân dân giải quyết
theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự.
3.Về
tranh chấp kinh tế có nhân tố nước ngoài.
Theo Điều
87 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thì các tranh chấp kinh tế
tại Việt Nam, nếu một hoặc các bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài đều được giải
quyết theo các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, trừ
trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc
tham gia có quy định khác. Theo quy định tại Điều 12 Pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án nhân dân có thẩm quyền giải
quyết các tranh chấp kinh tế sau đây:
a) Tranh chấp phát
sinh từ hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh được ký kết giữa một bên là
pháp nhân Việt Nam với một bên là cá nhân, pháp nhân nước ngoài, không phân biệt
việc pháp nhân đó có trụ sở hay không có trụ sở tại Việt Nam, cá nhân đó có cư
trú tại Việt Nam hay không.
b) Tranh chấp giữa
công ty với các thành viên của công ty, giữa các thành viên của công ty với
nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công ty;
c) Các tranh chấp
liên quan đến việc mua bán cổ phtếu, trái phiếu.
d) Các tranh chấp
kinh tế khác mà pháp luật có quy định.
Các tranh chấp
phát sinh từ hợp đồng có mục đích sản xuất, kinh doanh giữa các bên đều là cá
nhân nước ngoài, đều là pháp nhân nước ngoài hoặc giữa một bên là pháp nhân nước
ngoài với một bên là cá nhân nước ngoài do Toà án nhân dân giải quyết theo Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, vì theo quy định của Điều
43 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế thì các hợp đồng đó không phải là hợp đồng
kinh tế.
4.Vấn
đề hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế
a) Hoà giải trong
quá trình giải quyết vụ án xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Pháp lệnhThủ tục
giải quyết vụ án kinh tế không qui định những vụ việc nào không được hoà giải.
Trong thực tế việc hoà giải đã góp phần giải quyết vụ án được thuận lợi và
nhanh chóng, cho nên việc hoà giải trong quá trình giải quyết vụ án kinh tế kể
cả việc xử lý hợp đồng kinh tế vô hiệu là không trái pháp luật. Nhưng đối với
việc xử lý hợp đồng vô hiệu chỉ được hoà giải để giải quyết hậu quả của hợp đồng
vô hiệu chứ không được hoà giải để giải quyết việc coi đó là hợp đồng vô hiệu
hay không vô hiệu và càng không thể hoà giải để tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Trường hợp chi nhánh của pháp nhân nhân danh pháp nhân ký kết hợp đồng không được
uỷ quyền hợp pháp của người đứng đầu pháp nhân mà nội dung của hợp đồng đó
không trái pháp luật, việc thực hiện công việc đã thoả thuận trong hợp đồng phù
hợp với đăng ký kinh doanh của các bên, thì Toà án có thể hoà giải để các bên
chấp nhận hợp đồng và định cho họ một thời hạn phù hợp để họ hoàn tất hợp đồng
theo quy định của pháp luật. Nếu các bên vẫn yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu
hoặc sau khi đã hết thời hạn mà Toà án ấn định để hoàn tất hợp đồng mà không
hoàn tất hợp đồng theo quy định của pháp luật thì Toà án tuyên bố hợp đồng vô
hiệu.
b) Trường hợp
không thể tiến hành hoà giải được do bị đơn cố tình vắng mặt khi hoà giải, thì
Toà án cần lập biên bản về sự cố tình vắng mặt đó của bị đơn, sau đó làm thủ tục
thông báo cần thiết theo quy định của pháp luật như: niêm yết giấy báo công
khai hay thông báo trên phương tiện thông tin đại chúng.. Nếu đương sự vắng mặt
đến lần thứ hai khi hoà giải thì Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Sau
khi đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử thì Toà án chỉ tiến hành hoà giải tại
phiên toà nếu bị đơn có mặt.
5.Vấn
đề tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án khi bị đơn bỏ trốn.
Trong trường hợp
đã thụ lý vụ án kinh tế mà chưa tìm được địa chỉ của bị đơn hoặc bị đơn bỏ trốn
nên chưa lấy được lời khai của bị đơn thì áp dụng khoản 1 Điều
38 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Toà án ra quyết định tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án. Nếu sau khi thụ lý vụ án, đã lấy được lời khai
của bị đơn mà bị đơn bỏ trốn thì đưa vụ án ra xét xử theo hướng dẫn tại điểm b
mục 4 Công văn này.
Trường hợp phải tạm
đình chỉ việc giải quyết vụ án mà thấy cần phải áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm
thời, thì Toà án phải ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trước rồi
mới ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Trong thời gian tạm đình chỉ
giải quyết vụ án thì biện pháp khẩn cấp tạm thời vẫn có hiệu lực thi hành.
Nếu việc bỏ trốn của
bị đơn có dấu hiệu của tội phạm thì Toà án cần làm văn bản kiến nghị và chuyển
hồ sơ cho Viện kiểm sát để khởi tố vụ án hình sự.
6.Về
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp trong quan hệ kinh tế giữa pháp nhân với
pháp nhân nhưng không có hợp đồng kinh tế.
Theo quy định tại Điều 1 Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế, thì hợp đồng kinh tế phải được
các bên ký kết bằng văn bản hoặc tài liệu giao dịch như công văn, điện báo, đơn
chào hàng, đơn đặt hàng với sự quy định rõ ràng quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Theo quy định trên thì sự cam kết bằng miệng giữa pháp nhân với pháp nhân trong
giao dịch quan hệ kinh tế không được coi là hợp đồng kinh tế, vì không đúng
hình thức hợp đồng do pháp luật quy định; do đó, khi xảy ra tranh chấp, thì Toà
án nhân dân giải quyết theo quy định tại Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
dân sự.
7.Việc
áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời bắt giữ tàu biển của nước ngoài để giải quyết
tranh chấp trong giao nhận hàng hoá từ tàu biển nước ngoài
Điều
36 Bộ luật hàng hải quy định là chỉ sau khi đã thụ lý
để giải quyết việc tranh chấp thì Toà án mới có quyền ra lệnh bắt giữ tàu biển
để bảo đảm cho việc giải quyết tranh chấp đó. Vì vậy, chỉ sau khi đã thụ lý vụ
án kinh tế hay vụ án dân sự, Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương mới có quyền ra quyết định bắt giữ tàu biển với tính chất là biện pháp khẩn
cấp tạm thời trong trường hợp cần thiết, cụ thể là:
a) Trong trường hợp
pháp nhân của Việt Nam ký hợp đồng vận chuyển với chủ tàu nước ngoài, nếu có tranh
chấp thì Toà án nhân dân giải quyết theo các quy định của Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế và việc bắt giữ tàu biển với tính chất là biện pháp khẩn
cấp tạm thời được áp dụng trong trường hợp cần thiết.
b) Trong trường hợp
cá nhân, pháp nhân của Việt Nam ký kết hợp đồng mua hàng hoá của cá nhân, pháp
nhân nước ngoài, mà bên nước ngoài thuê tàu biển vận chuyển để giao hàng cho
bên Việt Nam, nếu chủ hàng không chịu giao hàng theo vận đơn, giao hàng thiếu
hoặc để hàng hư hỏng, thì bên Việt Nam có quyền khởi kiện chủ tàu tại Toà án
nhân dân để bảo vệ quyền sở hữu của mình. Toà án nhân dân giải quyết loại tranh
chấp này theo Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự và việc bắt giữ tàu
biển với tính chất là biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng trong trường hợp
cần thiết. Hướng dẫn này cũng được áp dụng đối với trường hợp cá nhân ở Việt
Nam ký kết hợp đồng vận chuyển với chủ tàu nước ngoài.