Từ khoá: Số Hiệu, Tiêu đề hoặc Nội dung ngắn gọn của Văn Bản...

Đăng nhập

Đang tải văn bản...

Số hiệu: Khongso Loại văn bản: Luật
Nơi ban hành: Ủy ban của Liên Hợp Quốc Người ký: ***
Ngày ban hành: 21/06/1985 Ngày hiệu lực:
Ngày công báo: Đang cập nhật Số công báo: Đang cập nhật
Tình trạng: Đã biết

LUẬT MẪU

VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ CỦA ỦY BAN LIÊN HIỆP QUỐC VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

UỶ BAN CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ

(Tài liệu số A/40/17, phụ lục I của Liên Hợp Quốc)

(Ðược Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại quốc tế thông qua ngày 21 tháng 06 năm 1985)

CHƯƠNG I: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

CHƯƠNG II: THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI

CHƯƠNG III: THÀNH LẬP UỶ BAN TRỌNG TÀI

CHƯƠNG IV: THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI

CHƯƠNG V: HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI

CHƯƠNG VI: LẬP PHÁN QUYẾT VÀ CHẤM DỨT TỐ TỤNG

CHƯƠNG VII: YÊU CẦU TOÀ ÁN BÁC PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI

CHƯƠNG VIII. CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH PHÁN QUYẾT

Chương I:

NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG

Điều 1: PHẠM VI ÁP DỤNG

1. Luật này áp dụng cho trọng tài thương mại quốc tế, theo bất kỳ thoả thuận hiện hành nào giữa quốc gia này với quốc gia khác hoặc các quốc gia.

2. Những qui định của Luật này, trừ các Điều 8, Điều 9, Điều 35 và Điều 36 chỉ áp dụng nếu nơi xét xử trọng tài là tại lãnh thổ của Nước này.

3. Trọng tài là quốc tế nếu:

a. Các bên tham gia thoả thuận trọng tài, tại thời điểm ký kết thoả thuận trọng tài đó, có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau; hoặc

b. Một trong những địa điểm mà các bên có trụ sở kinh doanh sau đây được đặt ở ngoài quốc gia:

i. Nơi xét xử trọng tài nếu được xác định trong hoặc theo thoả thuận trọng tài;

ii. Nơi mà phần chủ yếu của các nghĩa vụ trong quan hệ thương mại được thực hiện hoặc nơi mà nội dung tranh chấp có quan hệ mật thiết nhất;

c. Các bên đã thoả thuận rõ rằng vấn đề chủ yếu của thoả thuận trọng tài liên quan đến nhiều nước.

4. Cũng là trọng tài quốc tế giống như qui định của khoản 3 Điều này:

a.Nếu một bên có nhiều trụ sở kinh doanh thì trụ sở kinh doanh sẽ là nơi có quan hệ chặt chẽ nhất với thoả thuận trọng tài.

b.Nếu một bên không có trụ sở kinh doanh thì nơi cư trú thường xuyên sẽ được dẫn chiếu tới.

5. Luật này không ảnh hưởng đến luật khác của nước này với một số loại tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài hoặc có thể đưa ra trọng tài theo những qui định khác với qui định của luật này.

Điều 2: CÁC ĐỊNH NGHĨA VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC GIẢI THÍCH

Về mục đích của luật này:

a. "Trọng tài" nghĩa là mọi hình thức trọng tài có hoặc không có sự giám sát của một tổ chức trọng tài thường trực;

b. "Ủy ban trọng tài" nghĩa là trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng các trọng tài viên;

c. "Toà án" nghĩa là tổ chức hoặc cơ quan thuộc hệ thống tư pháp của một nước;

d. Khi qui định của luật này, trừ Điều 28, để các bên tự do quyết định một vấn đề nhất định, sự tự do này bao gồm cả quyền của các bên được ủy quyền cho bên thứ ba, kể cả tổ chức, để đưa ra quyết định đó;

e. Nếu qui định của luật này dẫn chiếu đến việc các bên đã thoả thuận hoặc các bên có thể thoả thuận hoặc theo bất kỳ cách nào khác dẫn chiếu đến thoả thuận trọng tài, thoả thuận đó bao gồm cả qui tắc trọng tài được viện dẫn tới trong thoả thuận này;

f. Nếu qui định của luật này, trừ qui định trong Điều 25 (a) và Điều 32 (2) (a) dẫn chiếu đến một đơn kiện, cũng sẽ được áp dụng cho đơn kiện lại, và nếu qui định của luật này dẫn chiếu đến bản bào chữa cũng áp dụng cho bản tự bảo vệ đối với đơn kiện lại.

Điều 3: BIÊN NHẬN VÀ CÁC GIAO DỊCH BẰNG VĂN BẢN

1. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác:

a. Bất cứ giao dịch nào bằng văn bản sẽ được coi là đã nhận được nếu nó được chuyển riêng tới người nhận hoặc nếu được gửi đến trụ sở kinh doanh, nơi thường trú hoặc địa chỉ gửi thư của người đó mà các địa chỉ trên không thể tìm thấy sau những nỗ lực hợp lý, các giao dịch bằng văn bản được xem là đã nhận được nếu nó được gửi đến trụ sở kinh doanh, hoặc địa chỉ bưu điện được biết tới cuối cùng của người nhận bằng thư bảo đảm hoặc bằng cách thức khác có ghi nhận về việc chuyển thư đi.

b. Các giao dịch bằng văn bản sẽ được coi là đã nhận được vào ngày nó được chuyển tới.

2. Các qui định của Điều này không áp dụng cho việc giao dịch trong tố tụng toà án.

Điều 4: KHƯỚC TỪ QUYỀN PHẢN ĐỐI

Khi một bên biết rằng bất kì Điều khoản của Luật này có thể bị các bên làm tổn hại, hoặc bất kì yêu cầu nào theo thoả thuận trọng tài chưa được tuân thủ và vẫn tiếp tục tiến hành trọng tài mà không tuyên bố sự phản đối của mình về những việc không chấp hành đó trong thời hạn cho phép thì sẽ xem như đã từ bỏ quyền phản đối của mình.

Điều 5: MỞ RỘNG CAN THIỆP CỦA TOÀ ÁN.

Ðối với những vấn đề do Luật này Điều chỉnh, không có Toà án nào sẽ can thiệp vào trừ khi những trường hợp được Luật này qui định.

Điều 6: TOÀ ÁN HOẶC CƠ QUAN CÓ THẨM QUYỀN KHÁC VÌ MỘT SỐ CHỨC NĂNG NHẤT ĐỊNH TRONG VIỆC HỖ TRỢ VÀ GIÁM SÁT TRỌNG TÀI

Những chức năng được đề cập tới tại các Điều 11(3) , Điều 11(4), Điều 13(3), Điều 14, Điều 16(3) và Điều34(2) sẽ được thực hiện bởi (Mỗi quốc gia thông qua luật mẫu này ghi rõ toà án, các toà án hoặc những cơ quan có thẩm quyền khác thực hiện những chức năng này trong toà án).

Chương II

THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI

Điều 7: ÐỊNH NGHIÃ VÀ HÌNH THỨC CỦA THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI

1. "Thoả thuận trọng tài" là thoả thuận mà các bên đưa ra trọng tài mọi hoặc các tranh chấp nhất định phát sinh hoặc có thể phát sinh giữa các bên về quan hệ pháp lý xác định, dù là quan hệ hợp đồng hay không phải là quan hệ hợp đồng. Thoả thuận trọng tài có thể dưới hình thức Điều khoản trọng tài trong hợp đồng hoặc dưới hình thức thoả thuận riêng.

2. Thoả thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thoả thuận là văn bản nếu nó nằm trong một văn bản được các bên ký kết hoặc bằng sự trao đổi qua thư từ, Telex, telegrams hoặc các hình thức trao đổi viễn thông khác mà ghi nhận thoả thuận đó hoặc qua trao đổi về đơn kiện và bản biện hộ mà trong đó thể hiện sự tồn tại của thoả thuận do một bên đưa ra và bên kia không phủ nhận. Việc dẫn chiếu trong hợp đồng tới một văn bản ghi nhận Điều khoản trọng tài lập nên thoả thuận trọng tài với Điều kiện hợp đồng này phải là văn bản và sự dẫn chiếu đó là một bộ phận của hợp đồng này.

Điều 8: THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÀ ĐƠN KIỆN NỘI DUNG TRANH CHẤP TRƯỚC TOÀ

1. Trước khi việc kiện về vấn đề đối tượng của thỏa thuận được đưa ra, nếu một bên yêu cầu không muộn hơn thời gian khi nộp bản tường trình đầu tiên của mình về nội dung tranh chấp, toà án sẽ chuyển các bên cho trọng tài trừ khi toà án thấy rằng thoả thuận đó là vô hiệu và không có hiệu lực, không tiến hành được và không có khả năng thực hiện.

2. Nếu việc đi kiện được nêu tại khoản 1 Điều này đã đưa ra, tố tụng trọng tài vẫn có thể được bắt đầu và tiếp tục và phán quyết có thể được tuyên trong khi vấn đề đó sẽ tạm đình chỉ trước toà.

Điều 9: THOẢ THUẬN TRỌNG TÀI VÀ CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI CỦA TOÀ ÁN

Không có gì trái với thoả thuận trọng tài để một bên trước hoặc trong quá trình tố tụng trọng tài yêu cầu và toà án áp dụng các biện pháp bảo đảm tạm thời và để toà án ra các biện pháp bảo đảm đó.

Chương III

THÀNH LẬP UỶ BAN TRỌNG TÀI

Điều 10: SỐ LƯỢNG TRỌNG TÀI VIÊN

1. Các bên được tự do quyết định số lượng trọng tài viên.

2. Nếu các bên không quyết định, số lượng trọng tài viên sẽ là 3 người.

Điều 11: CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN

1. Không ai bị cản trở để thành trọng tài viên vì lý do quốc tịch, nếu các bên không có thoả thuận nào khác.

2. Các bên có quyền tự do thoả thuận về cách thức chỉ định trọng tài viên hoặc các trọng tài viên, theo qui định của khoản 4 và 5 Điều này.

3. Nếu không có thoả thuận của các bên:

a. Trong trọng tài với ba trọng tài viên, mỗi bên sẽ chỉ định một trọng tài viên, và hai trọng tài viên được chỉ định sẽ bầu trọng tài viên thứ ba; nếu một bên không chỉ định trọng tài viên trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu làm như vậy của phía bên kia hoặc nếu hai trọng tài viên không thoả thuận được trọng tài viên thứ ba trong vòng 30 ngày kể từ ngày họ được chỉ định, căn cứ yêu cầu của một bên, toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền được xác định tại Điều 6 sẽ tiến hành chỉ định.

b. Trong trọng tài viên với một trọng tài viên duy nhất, nếu các bên không thể thoả thuận chọn trọng tài viên này, căn cứ vào yêu cầu của một bên, toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền được xác định tại Điều 6 sẽ tiến hành chỉ định trọng tài viên duy nhất này.

4. Khi, theo cách thức chỉ định trọng tài viên được các bên thoả thuận.

a. Một bên không thực hiện như yêu cầu theo cách thức đó, hoặc

b. Các bên hoặc hai trọng tài viên không thể đạt được sự thoả thuận của mình theo trình tự đó, hoặc

c. Bên thứ ba, bao gồm tổ chức, không tiến hành chức năng được ủy thác theo trình tự đó thì bất cứ bên nào cũng có thể yêu cầu toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền được xác định tại Điều 6 tiến hành các biện pháp cần thiết, trừ khi thoả thuận về cách thức chỉ định trọng tài viên đưa ra giải pháp khác về việc đảm bảo việc chỉ định này.

5. Quyết định về vấn đề được ủy thác ở khoản (3) hoặc (4) của Điều này cho toà án hoặc tổ chức có thẩm quyền được xác định tại Điều 6 sẽ không phải là đối tượng để kháng án. Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác, trong việc chỉ định trọng tài viên, sẽ phải tôn trọng đúng mực về bất kỳ tiêu chuẩn nào được yêu cầu về trọng tài viên theo thoả thuận của các bên và cân nhắc cần thiết để đảm bảo việc chỉ định trọng tài viên độc lập và khách quan và, trong trường hợp trọng tài viên duy nhất hoặc trọng tài viên thứ ba, cũng phải tính đến có nên chỉ định trọng tài viên có quốc tịch khác với quốc tịch của các bên hay không.

Điều 12: CƠ SỞ TỪ CHỐI

1. Khi một người có khả năng được chỉ định làm trọng tài viên thì người đó cần phải công khai những hoàn cảnh có thể gây ra những nghi ngờ chính đáng về tính khách quan hoặc độc lập của mình. Kể từ khi được chỉ định và trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, trọng tài viên sẽ không được trì hoãn thông báo những hoàn cảnh đã nêu cho các bên biết, trừ khi các bên đã được trọng tài viên này thông báo rồi.

2. Trọng tài viên có thể bị từ chối chỉ khi có hoàn cảnh đem lại sự nghi ngờ chính đáng liên quan đến tính khách quan và độc lập của trọng tài viên này hoặc khi anh ta không có đủ phẩm chất như các bên đã thoả thuận. Một bên chỉ có thể từ chối trọng tài viên do chính mình chỉ định hoặc trong việc chỉ định trọng tài viên mà bên đó tham gia, chỉ vì những lý do mà bên đó biết biết sau khi đã tiến hành xong việc chỉ định.

Điều 13: THỦ TỤC TỪ CHỐI

1. Các bên được tự do thoả thuận thủ tục để từ chối trọng tài viên theo qui định khoản 3 của Điều này.

2. Nếu không có thoả thuận, bên có ý định từ chối trọng tài viên sẽ gửi văn bản nêu rõ những lý do để từ chối ủy ban trọng tài trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận thông báo thành lập ủy ban Trọng tài hoặc sau khi biết những hoàn cảnh được nêu tại Điều 12 (2). Nếu trọng tài viên bị từ chối không rút khỏi ủy ban trọng tài hoặc bên kia không đồng ý về việc từ chối này, ủy ban trọng tài sẽ quyết định.

3. Nếu việc từ chối theo thủ tục được các bên thoả thuận hoặc theo thủ tục được qui định tại khoản 2 Điều này không thành công, bên từ chối, trong thời hạn 30 ngày sau khi nhận được quyết định bác việc từ chối, có thể yêu cầu toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền được xác định tại Điều 6 quyết định về việc từ chối này, quyết định này không phải là đối tượng để kháng án, trong khi yêu cầu này bị tạm hoãn, ủy ban trọng tài kể cả trọng tài viên bị từ chối, có thể tiếp tục tố tụng trọng tài và ra phán quyết.

Điều 14: KHÔNG THỰC HIỆN HOẶC KHÔNG THỂ TIẾN HÀNH

1. Nếu một trọng tài viên thực tế không thể thực hiện nhiệm vụ của mình hoặc vì lý do nào đó không thực hiện được, nhiệm vụ của trọng tài viên này chấm dứt nếu trọng tài viên đó rút khỏi ủy ban Trọng tài hoặc nếu các bên nhất trí với việc chấm dứt đó. Ngược lại, nếu còn có bất đồng về cơ sở của việc chấm dứt này, bất cứ bên nào cũng có thể yêu cầu toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác được xác định theo Điều 6 quyết định về việc chấm dứt nhiệm vụ của trọng tài viên đó, quyết định này không là đối tượng để kháng án.

2. Nếu, theo Điều này hoặc Điều 13 (2) trọng tài viên rút khỏi vị trí của mình hoặc bên đồng ý chấm dứt nhiệm vụ của trọng tài viên, Điều này không hàm ý việc chấp nhận giá trị pháp lý của các căn cứ được dẫn chiếu trong Điều này và Điều 12(2).

Điều 15: CHỈ ĐỊNH TRỌNG TÀI VIÊN THAY THẾ

Khi nhiệm vụ của trọng tài viên chấm dứt theo các Điều 13 hoặc 14 hoặc vì những nguyên nhân khác về việc rút khỏi của trọng tài viên đó hoặc do các bên thoả thuận rút bỏ thẩm quyền của trọng tài viên hoặc trong các trường hợp khác về việc chấm dứt nhiệm vụ trọng tài viên, trọng tài viên thay thế sẽ được chỉ định theo những nguyên tắc được áp dụng cho việc chỉ định trọng tài viên bị thay thế.

Chương IV

THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI

Điều 16: THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI QUI ĐỊNH THẨM QUYỀN XÉT XỬ CỦA MÌNH

1. Ủy ban trọng tài có thể quyết định về thẩm quyền xét xử của chính mình, kể cả những ý kiến phản đối về sự tồn tại hoặc giá trị pháp lý của thoả thuận trọng tài. Vì mục đích này, Điều khoản trọng tài trở thành bộ phận của hợp đồng sẽ được coi là thoả thuận độc lập với các Điều khoản khác của hợp đồng. Quyết định của ủy ban Trọng tài về hợp đồng bị vô hiệu không làm cho Điều khoản trọng tài bị vô hiệu theo.

2. Ðơn yêu cầu về việc ủy ban Trọng tài không có thẩm quyền sẽ phải đưa ra không muộn hơn với việc nộp bản biện hộ. Không thể ngăn cản bên đưa ra đơn yêu cầu này chỉ vì đã chỉ định trọng tài viên hoặc tham gia việc chỉ định trọng tài viên. Ðơn yêu cầu về việc ủy ban Trọng tài vượt quá phạm vi được ủy quyền phải được đưa ra ngay khi nhận thấy sự kiện được cho là vượt quá thẩm quyền của ủy ban Trọng tài nảy sinh trong quá trình tố tụng Trọng tài. Một trong hai trường hợp này, uỷ ban Trọng tài có thể chấp nhận đơn yêu cầu sau nếu uỷ ban xét thấy sự trì hoãn này là hợp lý.

3. Ủy ban trọng tài có thể quyết định về đơn yêu cầu chỉ ra ở khoản 2 của Điều này như là vấn đề mở đầu hoặc giải quyết tại phán quyết về nội dung tranh chấp. Nếu ủy ban Trọng tài giải quyết như là một vấn đề mở đầu là ủy ban có thẩm quyền xét xử, thì bất kỳ bên nào cũng có thể, trong vòng 30 ngày sau khi nhận được thông báo về quyết định này, đề nghị toà án được xác định tại Điều 6 quyết định vấn đề này, quyết định này không bị kháng án; trong khi yêu cầu đó đang chờ giải quyết thì ủy ban Trọng tài vẫn có thể tiếp tục tiến hành quá trình tố tụng và đưa ra phán quyết.

Điều 17: THẨM QUYỀN CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI RA CÁC BIỆN PHÁP TẠM THỜI

Trừ khi các bên có thoả thuận khác, ủy ban Trọng tài có thể theo yêu cầu của một bên buộc bất kỳ bên nào phải tiến hành biện pháp bảo vệ tạm thời khi ủy ban Trọng tài thấy cần thiết đối với nội dung tranh chấp. Ủy ban Trọng tài có thể yêu cầu bất kỳ phía nào đưa ra sự bảo đảm thích hợp về biện pháp trên.

Chương V:

HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG TRỌNG TÀI

Điều 18: ÐỐI XỬ CÔNG BẰNG VỚI CÁC BÊN

Các bên phải được đối xử một cách công bằng và mỗi bên phải có cơ hội đầy đủ để trình bày về vụ kiện.

Điều 19: XÁC ĐỊNH CÁC NGUYÊN TẮC VỀ TỐ TỤNG

1. Theo qui định của luật này, các bên được tự do thoả thuận về tố tụng mà ủy ban Trọng tài phải thực hiện khi tiến hành tố tụng.

2. Nếu không có thoả thuận đó, ủy ban Trọng tài có thể, theo qui định của luật này, tiến hành trọng tài theo cách thức mà ủy ban Trọng tài cho là thích hợp. Quyền trao cho ủy ban Trọng tài bao gồm quyền xác định việc thừa nhận, tính hợp lý, sự xác đáng và trọng lượng của chứng cứ.

Điều 20: NƠI TIẾN HÀNH TRỌNG TÀI

1. Các bên được tự do thoả thuận nơi tiến hành trọng tài. Nếu không thoả thuận, nơi xét xử trọng tài sẽ được ủy ban Trọng tài quyết định căn cứ vào hoàn cảnh của vụ kiên, tính tới sự thuận tiện cho các bên.

2. Dẫu có qui định của khoản 1 của Điều này, ủy ban Trọng tài có thể, trừ khi các bên có thoả thuận khác, tổ chức tại địa điểm được xem là thích hợp cho việc hỏi ý kiến các ủy viên, cho việc mời nhân chứng, chuyên gia hoặc các bên hoặc việc giám định hàng hoá, tài sản khác hoặc văn bản.

Điều 21: KHỞI ĐẦU TỐ TỤNG TRỌNG TÀI

Nếu các bên không có thoả thuận nào khác, tố tụng của ủy ban Trọng tài liên quan đến tranh chấp cụ thể bắt đầu từ ngày đơn kiện gửi tới trọng tài được bị đơn nhận.

Điều 22: NGÔN NGỮ

1. Các bên tự do thoả thuận về ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ được sử dụng trong tố tụng trọng tài. Nếu không thoả thuận, ủy ban trọng tài sẽ quyết định ngôn ngữ hoặc các ngôn ngữ được sử dụng trong tố tụng. Thoả thuận này hoặc quyết định này, trừ khi được xác định rõ trong đó, sẽ áp dụng với văn bản của các bên, trong phiên xét xử và trong phán quyết, quyết định hoặc các hình thức giao dịch của ủy ban Trọng tài.

2. Ủy ban Trọng tài có thể yêu cầu chứng cứ bằng văn bản phải được gửi kèm theo bản dịch sang ngôn ngữ hoặc những ngôn ngữ mà các bên đã thoả thuận hoặc được ủy ban Trọng tài quyết định.

Điều 23: ĐƠN KIỆN VÀ ĐƠN BIỆN HỘ

1. Trong thời gian do các bên thoả thuận hoặc do ủy ban trọng tài quyết định, nguyên đơn sẽ nêu rõ các sự việc chứng minh cho đơn kiện của mình, những điểm của tranh chấp, những thiệt hại và những yêu cầu của nguyên đơn, và bị đơn sẽ trình bày bản tự bào chữa về những điểm cụ thể này, trừ khi các bên có thoả thuận khác về những điểm cần cho những văn bản này. Các bên có thể nộp bản giải trình của mình cùng với các chứng từ mà họ cho là có liên quan hoặc có thể bổ sung việc dẫn chiếu đến những chứng từ hoặc chứng cứ khác mà các bên đưa ra.

2. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác, một trong hai bên có thể sửa đổi hoặc bổ sung đơn kiện hoặc bản tự bào chữa của mình trong quá trình tố tụng trọng tài, trừ khi ủy ban trọng tài cho rằng Điều đó không thích hợp để cho phép việc sửa đổi đó dẫn đến sự chậm trễ trong quá trình tiến hành việc này.

Điều 24: XÉT XỬ TỐ TỤNG VĂN BẢN

1. Nếu các bên có thoả thuận ngược lại, ủy ban trọng tài sẽ quyết định xem là tiến hành phiên xét xử nói trên để trình bày chứng cứ hay là tranh luận giữa các bên, hoặc tố tụng này sẽ được tiến hành trên cơ sở xem xét chứng từ hoặc tài liệu khác. Tuy nhiên, trừ khi các bên đã thoả thuận không một phiên xét xử nào được tổ chức, ủy ban Trọng tài sẽ tổ chức những phiên xét xử vào những giai đoạn tố tụng thích hợp, nếu nó được một bên yêu cầu.

2. Các bên sẽ được nhận thông báo trước về những phiên xét xử và những cuộc họp của ủy ban Trọng tài vì mục đích giám định hàng hoá, tài sản hoặc chứng từ.

3. Tất cả các bản giải trình, chứng từ hoặc các thông tin khác được một bên cung cấp cho ủy ban Trọng tài cũng sẽ được gửi cho bên kia. Tương tự với các báo cáo của các chuyên gia hoặc các chứng cứ về những vấn đề mà ủy ban Trọng tài dựa vào để đưa ra quyết định sẽ phải được thông báo cho các bên biết.

Điều 25: SỰ VẮNG MẶT CỦA MỘT BÊN

Nếu các bên không có thoả thuận nào khác, nếu, không có lý do chính đáng,

a. Nguyên đơn không trao đổi về đơn kiện của mình theo qui định của Điều 23(1), ủy ban trọng tài sẽ đình chỉ tố tụng;

b. Bị đơn không gửi bản biện hộ theo qui định Điều 23(1), ủy ban trọng tài sẽ tiếp tục tố tụng mà coi việc không có bản biện hộ như là sự chấp nhận những lý lẽ của nguyên đơn.

c. Bất kỳ bên nào không có mặt tại phiên xét xử hoặc đưa ra chứng cứ, ủy ban trọng tài có thể tiếp tục tố tụng và đưa ra phán quyết trên cơ sở những chứng cứ trước đó.

Điều 26: CHUYÊN GIA ĐƯỢC UỶ BAN TRỌNG TÀI CHỈ ĐỊNH

1. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác, ủy ban trọng tài

a.Có thể chỉ định một hoặc một số chuyên gia báo cáo cho ủy ban trọng tài về những vấn đề cụ thể do ủy ban trọng tài quyết định;

b.Có thể yêu cầu một bên cung cấp cho các chuyên gia những thông tin có liên quan hoặc đưa ra hoặc cho phép chuyên gia vào, bất kỳ các chứng từ liên quan, hàng hoá hoặc tài sản khác để tiến hành giám định.

2. Trừ khi các bên có thoả thuận khác, nếu một bên có yêu cầu hoặc nếu ủy ban trọng tài thấy cần thiết sau khi chuyển bản báo cáo bằng miệng hoặc bằng văn bản, các chuyên gia sẽ tham dự phiên xét xử để các bên có cơ hội nêu các câu hỏi với chuyên gia và đưa ra những nhân chứng cho chuyên viên để thẩm định những điểm của vấn đề đó.

Điều 27: SỰ GIÚP ĐỠ CỦA TOÀ ÁN TRONG VIỆC THU THẬP CHỨNG CỨ

Ủy ban trọng tài hoặc một bên với sự đồng ý của ủy ban trọng tài có thể yêu cầu toà án có thẩm quyền của Nước này trợ giúp thu thập chứng cứ. Toà án có thể thực hiện yêu cầu đó trong phạm vi thẩm quyền của mình và theo nguyên tắc về thu thập chứng cứ.

Chương VI

LẬP PHÁN QUYẾT VÀ CHẤM DỨT TỐ TỤNG

Điều 28: NGUYÊN TẮC ÁP DỤNG ĐỐI VỚI NỘI DUNG TRANH CHẤP

1. Ủy ban trọng tài sẽ quyết định tranh chấp căn cứ vào nguyên tắc của luật áp dụng cho nội dung tranh chấp mà các bên đã chọn. Bất kì sự chỉ rõ luật hoặc hệ thống pháp lý của nước được chọn sẽ được giải thích trừ khi qui định khác như là sự dẫn chiếu một cách trực tiếp tới luật nội dung của quốc gia đó và không dẫn chiếu đến nguyên tắc xung đột luật của nước này.

2. Nếu các bên không chọn luật, ủy ban trọng tài sẽ áp dụng luật được xác định bởi các nguyên tắc xung đột luật mà ủy ban trọng tài thấy là thích hợp.

3. Ủy ban trọng tài có thể quyết định trên cơ sở lẽ công bằng hoặc tính hợp lý chi khi các bên đã ủy quyền rõ ràng cho ủy ban được làm như vậy.

4. Trong mọi trường hợp, ủy ban trọng tài sẽ quyết định căn cứ vào các Điều khoản của hợp đồng và cân nhắc tới tập quán thương mại áp dụng cho giao dịch đó.

Điều 29: RA QUYẾT ĐỊNH CỦA UỶ BAN TRỌNG TÀI

Trong tố tụng trọng tài gồm nhiều trọng tài viên, nếu các bên không có thoả thuận nào khác, việc

quyết định của ủy ban trọng tài theo nguyên tắc đa số của các thành viên trong ủy ban. Tuy nhiên, vấn đề về tố tụng có thể được quyết định bởi Chủ tịch ủy ban nếu được các bên và các thành viên khác của ủy ban trọng tài ủy quyền.

Điều 30: GIẢI QUYẾT

1. Nếu trong quá trình tố tụng trọng tài, các bên giải quyết được tranh chấp, ủy ban trọng tài sẽ chấm dứt tố tụng khi các bên có yêu cầu và ủy ban trọng tài không phản đối, và ghi nhận việc giải quyết này dưới hình thức phán quyết trọng tài về các Điều kiện thoả thuận.

2. Phán quyết về Điều kiện được thoả thuận sẽ được lập theo với qui định tại Điều 31 và sẽ được tuyên như là một phán quyết. Phán quyết này có vị trí và hiệu lực tương tự như phán quyết về nội dung vụ kiện.

Điều 31: HÌNH THỨC VÀ NỘI DUNG PHÁN QUYẾT

1. Phán quyết phải được lập bằng văn bản và phải được trọng tài viên hoặc các trọng tài viên ký. Trong tố tụng trọng tài gồm nhiều trọng tài viên, chữ ký của đa số các trọng tài viên trong ủy ban trọng tài là đủ, nếu như có nêu lý do về những chữ ký khuyết.

2. Trừ khi các bên thoả thuận rằng không nêu lý do hoặc phán quyết là phán quyết về các Điều khoản được thoả thuận theo Điều 30, phán quyết phải nêu rõ lý do làm căn cứ để quyết định.

3. Phán quyết này phải nêu rõ ngày và địa điểm lập phán quyết như qui định theo Điều 20(1) Phán quyết sẽ được xem là được lập tại nơi đó.

4. Sau khi phán quyết được lập, một bản được các trọng tài viên ký theo qui định tại khoản 1 của Điều này sẽ được tống đạt cho mỗi bên.

Điều 32: CHẤM DỨT TỐ TỤNG

1. Tố tụng trọng tài sẽ được chấm dứt bởi phán quyết chung thẩm hoặc bởi yêu cầu của ủy ban trọng tài theo qui định tại khoản 2 Điều này.

2. Ủy ban trọng tài sẽ đưa ra yêu cầu chấm dứt tố tụng trọng tài khi:

a. Nguyên đơn rút đơn kiện, trừ khi bị đơn phản đối việc này và ủy ban trọng tài công nhận lợi ích chính đáng của bị đơn trong việc có được một giải pháp cuối cùng về tranh chấp.

b. Các bên đồng ý chấm dứt tố tụng.

c. Ủy ban trọng tài thấy rằng việc tiếp tục tố tụng vì bất cứ lý do nào khác là không cần thiết và không thể được.

3. Trao quyền cho ủy ban trọng tài kết thúc quá trình tố tụng theo qui định tại các Điều 33 và 34(4).

Điều 33: SỬA CHỮA VÀ GIẢI THÍCH PHÁN QUYẾT; PHÁN QUYẾT BỔ SUNG

1. Trừ khi các bên thoả thuận một thời hạn khác, trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết:

a. Một bên có thể yêu cầu ủy ban trọng tài sửa trong phán quyết những lỗi về tính toán, đánh máy hoặc lỗi in hoặc những lỗi tương tự, có thông báo cho bên kia biết về Điều này.

b. Nếu các bên có thoả thuận, một bên có thể yêu cầu ủy ban trọng tài đưa ra những giải thích về điểm cụ thể hoặc một phần của phán quyết, có thông báo cho bên kia về yêu cầu này.

Nếu ủy ban trọng tài thấy rằng yêu cầu này là chính đáng, ủy ban trọng tài sẽ tiến hành sửa chữa lại hoặc đưa ra lời giải thích trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu. Giải thích này là một bộ phận của phán quyết.

2. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày lập phán quyết, ủy ban trọng tài có thể chủ động sửa những lỗi đánh máy sai được nêu tại khoản 1 điểm a Điều này.

3. Nếu các bên không có thoả thuận nào khác, trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được phán quyết, một bên có thể yêu cầu ủy ban trọng tài ra phán quyết bổ sung những khiếu nại được nêu ra trong quá trình tố tụng nhưng lại không được nêu trong phán quyết và phải thông báo yêu cầu này cho bên kia. Nếu ủy ban trọng tài cho rằng yêu cầu này là chính đáng thì ủy ban trọng tài sẽ ra phán quyết bổ sung trong thời hạn 60 ngày.

4. Nếu cần thiết ủy ban trọng tài sẽ gia hạn việc sửa chữa, giải thích hoặc ra phán quyết bổ sung theo khoản 1 và 3 Điều này.

5. Những qui định của Điều 31 sẽ chỉ áp dụng về việc sửa chữa hoặc giải thích trong phán quyết hoặc ra phán quyết bổ sung.

Chương VII

YÊU CẦU TOÀ ÁN BÁC PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI

Điều 34: ÐƠN YÊU CẦU HUỶ BỎ PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI LÀ CÁCH THỨC DUY NHẤT ĐỂ YÊU CẦU TOÀ ÁN BÁC PHÁN QUYẾT CỦA TRỌNG TÀI.

1. Việc yêu cầu toà án bác phán quyết của trọng tài chỉ có thể được tiến hành thông qua đơn yêu cầu toà án hủy bỏ phán quyết phù hợp với quy định tại các đoạn (2) và (3) của Điều này.

2. Một phán quyết chỉ có thể bị toà án theo qui định tại Điều 6 hủy bỏ trong trường hợp:

a.Bên làm đơn yêu cầu đưa ra những bằng chứng khẳng định rằng:

i. Một trong các bên ký kết thoả thuận trọng tài theo qui định tại Điều 7 không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của nước nơi phán quyết được tuyên trong trường hợp mà các bên không ghi rõ; hoặc

ii. Bên phải thi hành phán quyết không được thông báo một cách đầy đủ về việc chỉ định trọng tài viên hoặc tố tụng trọng tài hoặc nói cách khác không thể thực hiện việc tranh tụng của mình; hoặc

iii. Phán quyết giải quyết tranh chấp không được qui định hoặc không nằm trong phạm vi các Điều khoản của thoả thuận đưa ra trọng tài giải quyết, hoặc phán quyết này bao gồm những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm vi của thoả thuận trọng tài giải quyết với Điều kiện là những quyết định về các vấn đề đưa ra trọng tài giải quyết có thể tách ra khỏi những vấn đề không được đưa ra trọng tài và chỉ có phần của phán quyết chứa đựng các quyết định về vấn đề không được nêu ra trọng tài giải quyết có thể bị hủy bỏ; hoặc

iv. Thành phần của ủy ban trọng tài hoặc tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận giữa các bên trừ trường hợp thoả thuận này trái với Điều khoản trong luật này mà các bên không thể vi phạm được, hoặc nếu không có thoả thuận đó, không phù hợp với luật này; hoặc

b. Toà án phát hiện rằng:

i. Theo luật của nước đó, vấn đề nội dung tranh chấp không thể giải quyết bằng trọng tài được; hoặc

ii. Phán quyết mâu thuẫn với chính sách công của quốc gia đó.

3. Ðơn yêu cầu hủy bỏ phán quyết không được lập muộn quá ba tháng kể từ ngày bên nộp đơn yêu cầu nhận được phán quyết hoặc nếu đơn yêu cầu được tiến hành theo Điều 33 thì tính từ ngày mà yêu cầu đó được ủy ban trọng tài giải quyết.

4. Toà án khi được yêu cầu hủy bỏ phán quyết, có thể, nếu thấy thích hợp và theo yêu cầu của một bên, đình chỉ trình tự hủy bỏ phán quyết trong một thời gian do toà án quyết định để ủy ban trọng tài có cơ hội tiếp tục tiến hành tố tụng trọng tài hoặc tiến hành các hoạt động khác theo ý kiến cuả ủy ban trọng tài sẽ loại trừ cơ sở để hủy bỏ phán quyết.

Chương VIII

CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH

Điều 35: CÔNG NHẬN VÀ THI HÀNH.

1. Phán quyết của trọng tài, bất kể được tuyên ở đâu, sẽ được công nhận có tính ràng buộc và khi có đơn yêu cầu được lập thành văn bản gửi đến toà án có thẩm quyền, sẽ được thi hành theo những qui định tại Điều này và Điều 36.

2. Bên dựa vào phán quyết hay yêu cầu thi hành phán quyết sẽ cung cấp bản gốc hay một bản sao của phán quyết đã được chứng thực hợp lệ cùng với bản gốc của thoả thuận trọng tài theo qui định tại Điều 7 hoặc một bản sao của thoả thuận này đã được chứng thực hợp lệ. Nếu phán quyết hay thoả thuận trọng tài không được lập bằng ngôn ngữ chính thức của quốc gia nơi thi hành phán quyết, bên yêu cầu thi hành sẽ phải cung cấp một bản dịch sang ngôn ngữ đó và phải được chứng thực hợp lệ.

Điều 36: CÁC TRƯỜNG HỢP TỪ CHỐI VIỆC CÔNG NHẬN HOẶC THI HÀNH.

1. Việc công nhận hay thi hành phán quyết trọng tài, bất kể phán quyết này được tuyên ở nước nào, chỉ có thể bị từ chối trong trường hợp:

(a) Theo yêu cầu của bên phải thi hành, nếu bên đó cung cấp được cho toà án có thẩm quyền nơi công nhận hay thi hành phán quyết bằng chứng khẳng định rằng:

i. Bên tham gia thoả thuận trọng tài theo qui định tại Điều 7 không đủ năng lực ký kết thoả thuận đó; hoặc thoả thuận nói trên không có giá trị pháp lý theo luật mà các bên đã chọn để áp dụng hoặc theo luật của nước nơi phán quyết được tuyên trong trường hợp không ghi rõ; hoặc.

ii. Bên phải thi hành phán quyết không được thông báo một cách hợp thức về việc chỉ định trọng tài viên hoặc về các thủ tục giải quyết vụ tranh chấp tại trọng tài hoặc ( vì những nguyên nhân chính đáng khác mà) không thể thực hiện được việc tranh tụng của mình; hoặc

iii. Phán quyết được tuyên về một vụ tranh chấp không được qui định hoặc không nằm trong phạm vi các Điều khoản của thoả thuận trọng tài, hoặc phán quyết này chứa đựng những quyết định về các vấn đề vượt quá phạm vi giải quyết nêu ra trong thoả thuận trọng tài; trong trường hợp có thể tách phần quyết định về vấn đề đã được yêu cầu giải quyết tại trọng tài với phần không được quyết định về những vấn đề không được yêu cầu giải quyết tại trọng tài, thì phần phán quyết có những quyết định về vấn đề được yêu cầu giải quyết có thể được công nhận và cho thi hành; hoặc

iv. Thành phần của ủy ban trọng tài hoặc thủ tục giải quyết tranh chấp của trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên hoặc trong trường hợp không có thỏa thuận đó không phù hợp với luật của nước nơi tiến hành xét xử trọng tài; hoặc

v. Phán quyết của trọng tài chưa có hiệu lực ràng buộc với các bên hoặc phán quyết đó bị hủy bỏ hoặc đình chỉ bởi toà án của nước nơi phán quyết được tuyên hoặc theo luật của nước nơi phán quyết được lập.

(b) Nếu Toà án thấy rằng:

i. Theo luật của quốc gia này, nội dung tranh chấp không thể giải quyết qua thể thức trọng tài; hoặc

ii. Việc công nhận và cho thi hành phán quyết đó sẽ trái với chính sách công của quốc gia này.

2. Trường hợp đơn yêu cầu hủy bỏ hay đình chỉ thi hành phán quyết được gửi đến toà án theo như qui định tại đoạn (1) (a) (v) của Điều khoản này, thì toà án nơi được yêu cầu công nhận và thi hành phán quyết nếu thấy yêu cầu này hợp lệ, sẽ tạm hoãn quyết định cho thi hành của mình và cũng có thể, trên cơ sở có đơn yêu cầu của bên đòi công nhận hoặc thi hành phán quyết ra lệnh cho bên kia đưa ra một sự bảo đảm thích hợp.

UNITED NATIONS PUBLICATION

Sales No. E.08.V.4

ISBN 978-92-1-133773-0

 

 

 

 

 

 

 

 

Contents

Resolutions adopted by the General Assembly

General Assembly Resolution 40/72 (11 December 1985)

General Assembly Resolution 61/33 (4 December 2006)

Part One

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter I. General provisions.

Article 1. Scope of application

Article 2. Definitions and rules of interpretation

Article 2A. International origin and general principles

Article 3. Receipt of written communications

Article 4. Waiver of right to object

Article 5. Extent of court intervention

Article 6. Court or other authority for certain functions of arbitration assistance and supervision

Chapter II. Arbitration agreement

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

              Option II Definition of arbitration agreement

Article 8. Arbitration agreement and substantive claim before court

Article 9. Arbitration agreement and interim measures by court

Chapter III. Composition of arbitral tribunal

Article 10. Number of arbitrators

Article 11. Appointment of arbitrators

Article 12. Grounds for challenge

Article 13. Challenge procedure

Article 14. Failure or impossibility to act

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter IV. Jurisdiction of arbitral tribunal

Article 16. Competence of arbitral tribunal to rule on its jurisdiction

Chapter IV A. Interim measures and preliminary orders

Section 1. Interim measures

Article 17. Power of arbitral tribunal to order interim measures

Article 17 A. Conditions for granting interim measures

Section 2. Preliminary orders

Article 17 B. Applications for preliminary orders and conditions for granting preliminary orders

Article 17 C. Specific regime for preliminary orders

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 17 D. Modification, suspension, termination

Article 17 E. Provision of security

Article 17 F. Disclosure

Article 17 G. Costs and damages

Section 4. Recognition and enforcement of interim measures

Article 17 H. Recognition and enforcement

Article 17 I. Grounds for refusing recognition or enforcement

Section 5. Court-ordered interim measures

Article 17 J. Court-ordered interim measures

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 18. Equal treatment of parties

Article 19. Determination of rules of procedure

Article 20. Place of arbitration

Article 21. Commencement of arbitral proceedings

Article 22. Language

Article 23. Statements of claim and defence

Article 24. Hearings and written proceedings

Article 25. Default of a party

Article 26. Expert appointed by arbitral tribunal

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter VI. Making of award and termination of proceedings

Article 28. Rules applicable to substance of dispute

Article 29. Decision-making by panel of arbitrators

Article 30. Settlement

Article 31. Form and contents of award

Article 32. Termination of proceedings

Article 33. Correction and interpretation of award; additional award

Chapter VII. Recourse against award

Article 34. Application for setting aside as exclusive recourse against arbitral award

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 35. Recognition and enforcement

Article 36. Grounds for refusing recognition or enforcement

Part Two

EXPLANATORY NOTE BY THE UNCITRAL SECRETARIAT ON THE MODEL LAW ON INTERNATIONAL COMMERCIAL ARBITRATION

A. Background to the Model Law

1. Inadequacy of domestic laws

2. Disparity between national laws

B. Salient features of the Model Law

1. Special procedural regime for international commercial arbitration

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

3. Composition of arbitral tribunal

4. Jurisdiction of arbitral tribunal

5. Conduct of arbitral proceedings

6. Making of award and termination of proceedings

7. Recourse against award

8. Recognition and enforcement of awards

Part Three

“RECOMMENDATION REGARDING THE INTERPRETATION OF ARTICLE II, PARAGRAPH 2, AND ARTICLE VII, PARAGRAPH 1, OF THE CONVENTION ON THE RECOGNITION AND ENFORCEMENT OF FOREIGN ARBITRAL AWARDS, DONE IN NEW YORK, 10 JUNE 1958”, ADOPTED BY THE UNITED NATIONS COMMISSION ON INTERNATIONAL TRADE LAW ON 7 JULY 2006 AT ITS THIRTY-NINTH SESSION

 

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

ADOPTED BY THE GENERAL ASSEMBLY

40/72. Model Law on International Commercial Arbitration of the United Nations Commission on International Trade Law

The General Assembly,

Recognizing the value of arbitration as a method of settling disputes arising in international commercial relations,

Convinced that the establishment of a model law on arbitration that is accept- able to States with different legal, social and economic systems contributes to the development of harmonious international economic relations,

Noting that the Model Law on International Commercial Arbitration1 was adopted by the United Nations Commission on International Trade Law at its eighteenth session, after due deliberation and extensive consultation with arbitral institutions and individual experts on international commercial arbitration,

Convinced that the Model Law, together with the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards2 and the Arbitration Rules of the United Nations Commission on International Trade Law3 recommended by the General Assembly in its resolution 31/98 of 15 December 1976, significantly contributes to the establishment of a unified legal framework for the fair and efficient settlement of disputes arising in international commercial relations,

1. Requests the Secretary-General to transmit the text of the Model Law on International Commercial Arbitration of the United Nations Commission on Inter- national Trade Law, together with the travaux préparatoires from the eighteenth session of the Commission, to Governments and to arbitral institutions and other interested bodies, such as chambers of commerce;

2. Recommends that all States give due consideration to the Model Law on International Commercial Arbitration, in view of the desirability of uniformity of the law of arbitral procedures and the specific needs of international commercial arbitration practice.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

11 December 1985

 

[on the report of the Sixth Committee (A/61/453)]

61/33. Revised articles of the Model Law on International Commercial Arbitration of the United Nations Commission on International Trade Law, and the recommendation regarding the interpretation of article II, paragraph 2, and article VII, paragraph 1, of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done at New York, 10 June 1958

The General Assembly,

Recognizing the value of arbitration as a method of settling disputes arising in the context of international commercial relations,

Recalling its resolution 40/72 of 11 December 1985 regarding the Model Law on International Commercial Arbitration,

Recognizing the need for provisions in the Model Law to conform to current practices in international trade and modern means of contracting with regard to the form of the arbitration agreement and the granting of interim measures,

Believing that revised articles of the Model Law on the form of the arbitration agreement and interim measures reflecting those current practices will significantly enhance the operation of the Model Law,

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Believing that, in connection with the modernization of articles of the Model Law, the promotion of a uniform interpretation and application of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done at New York, 10 June 1958,2 is particularly timely,

1. Expresses its appreciation to the United Nations Commission on International Trade Law for formulating and adopting the revised articles of its Model Law on International Commercial Arbitration on the form of the arbitration agreement and interim measures, the text of which is contained in annex I to the report of the United Nations Commission on International Trade Law on the work of its thirty- ninth session, 3 and recommends that all States give favourable consideration to the enactment of the revised articles of the Model Law, or the revised Model Law on International Commercial Arbitration of the United Nations Commission on International Trade Law, when they enact or revise their laws, in view of the desirability of uniformity of the law of arbitral procedures and the specific needs of international commercial arbitration practice;

2. Also expresses its appreciation to the United Nations Commission on International Trade Law for formulating and adopting the recommendation regarding the interpretation of article II, paragraph 2, and article VII, paragraph 1, of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done at New York, 10 June 1958, 2 the text of which is contained in annex II to the report of the United Nations Commission on International Trade Law on the work of its thirty-ninth session; 3

3. Requests the Secretary-General to make all efforts to ensure that the revised articles of the Model Law and the recommendation become generally known and available.

64th plenary meeting

4 December 2006

 

Part One

UNCITRAL MODEL LAW ON INTERNATIONAL COMMERCIAL ARBITRATION

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(As adopted by the United Nations Commission on International Trade Law on 21 June 1985, and as amended by the United Nations Commission on International Trade Law on 7 July 2006)

Chapter I.

GENERAL PROVISIONS

Article 1. Scope of application 1

(1) This Law applies to international commercial 2 arbitration, subject to any agreement in force between this State and any other State or States.

(2) The provisions of this Law, except articles 8, 9, 17 H, 17 I, 17 J, 35 and 36, apply only if the place of arbitration is in the territory of this State.

(Article 1(2) has been amended by the Commission at its thirty-ninth session, in 2006)

(3) An arbitration is international if:

(a) the parties to an arbitration agreement have, at the time of the conclusion of that agreement, their places of business in different States; or

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(i) the place of arbitration if determined in, or pursuant to, the arbitration agreement;

(ii) any place where a substantial part of the obligations of the commercial relationship is to be performed or the place with which the subject-matter of the dispute is most closely connected; or

(c) the parties have expressly agreed that the subject matter of the arbitration agreement relates to more than one country.

(4) For the purposes of paragraph (3) of this article:

(a) if a party has more than one place of business, the place of business is that which has the closest relationship to the arbitration agreement;

(b) if a party does not have a place of business, reference is to be made to his habitual residence.

(5) This Law shall not affect any other law of this State by virtue of which certain disputes may not be submitted to arbitration or may be submitted to arbitration only according to provisions other than those of this Law.

Article 2. Definitions and rules of interpretation

For the purposes of this Law:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(b) “arbitral tribunal” means a sole arbitrator or a panel of arbitrators;

(c) “court” means a body or organ of the judicial system of a State;

(d) where a provision of this Law, except article 28, leaves the parties free to determine a certain issue, such freedom includes the right of the parties to authorize a third party, including an institution, to make that determination;

(e) where a provision of this Law refers to the fact that the parties have agreed or that they may agree or in any other way refers to an agreement of the parties, such agreement includes any arbitration rules referred to in that agreement;

(f) where a provision of this Law, other than in articles 25(a) and 32(2) (a), refers to a claim, it also applies to a counter-claim, and where it refers to a defence, it also applies to a defence to such counter-claim.

Article 2 A. International origin and general principles

(As adopted by the Commission at its thirty-ninth session, in 2006)

(1) In the interpretation of this Law, regard is to be had to its international origin and to the need to promote uniformity in its application and the observance of good faith.

(2) Questions concerning matters governed by this Law which are not expressly settled in it are to be settled in conformity with the general principles on which this Law is based.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(1) Unless otherwise agreed by the parties:

(a) any written communication is deemed to have been received if it is delivered to the addressee personally or if it is delivered at his place of business, habitual residence or mailing address; if none of these can be found after making a reasonable inquiry, a written communication is deemed to have been received if it is sent to the addressee’s last-known place of business, habitual residence or mailing address by registered letter or any other means which provides a record of the attempt to deliver it;

(b) the communication is deemed to have been received on the day it is so delivered.

(2) The provisions of this article do not apply to communications in court proceedings.

Article 4. Waiver of right to object

A party who knows that any provision of this Law from which the parties may derogate or any requirement under the arbitration agreement has not been complied with and yet proceeds with the arbitration without stating his objection to such non-compliance without undue delay or, if a time-limit is provided therefor, within such period of time, shall be deemed to have waived his right to object.

Article 5. Extent of court intervention

In matters governed by this Law, no court shall intervene except where so provided in this Law.

Article 6. Court or other authority for certain functions of arbitration assistance and supervision

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter II.

ARBITRATION AGREEMENT

Option I

Article 7. Definition and form of arbitration agreement

(As adopted by the Commission at its thirty-ninth session, in 2006)

(1) “Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal relationship, whether contractual or not. An arbitration agreement may be in the form of an arbitration clause in a contract or in the form of a separate agreement.

(2) The arbitration agreement shall be in writing.

(3) An arbitration agreement is in writing if its content is recorded in any form, whether or not the arbitration agreement or contract has been concluded orally, by conduct, or by other means.

(4) The requirement that an arbitration agreement be in writing is met by an electronic communication if the information contained therein is accessible so as to be useable for subsequent reference; “electronic communication” means any communication that the parties make by means of data messages; “data message” means information generated, sent, received or stored by electronic, magnetic, optical or similar means, including, but not limited to, electronic data interchange (EDI), electronic mail, telegram, telex or telecopy.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(6) The reference in a contract to any document containing an arbitration clause constitutes an arbitration agreement in writing, provided that the reference is such as to make that clause part of the contract.

Option II

Article 7. Definition of arbitration agreement

(As adopted by the Commission at its thirty-ninth session, in 2006)

“Arbitration agreement” is an agreement by the parties to submit to arbitration all or certain disputes which have arisen or which may arise between them in respect of a defined legal relationship, whether contractual or not.

Article 8. Arbitration agreement and substantive claim before court

(1) A court before which an action is brought in a matter which is the subject of an arbitration agreement shall, if a party so requests not later than when submitting his first statement on the substance of the dispute, refer the parties to arbitration unless it finds that the agreement is null and void, inoperative or incapable of being performed.

(2) Where an action referred to in paragraph (1) of this article has been brought, arbitral proceedings may nevertheless be commenced or continued, and an award may be made, while the issue is pending before the court.

Article 9. Arbitration agreement and interim measures by court

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Chapter III.

COMPOSITION OF ARBITRAL TRIBUNAL

Article 10. Number of arbitrators

(1) The parties are free to determine the number of arbitrators.

(2) Failing such determination, the number of arbitrators shall be three.

Article 11. Appointment of arbitrators

(1) No person shall be precluded by reason of his nationality from acting as an arbitrator, unless otherwise agreed by the parties.

(2) The parties are free to agree on a procedure of appointing the arbitrator or arbitrators, subject to the provisions of paragraphs (4) and (5) of this article.

(3) Failing such agreement,

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(b) in an arbitration with a sole arbitrator, if the parties are unable to agree on the arbitrator, he shall be appointed, upon request of a party, by the court or other authority specified in article 6.

(4) Where, under an appointment procedure agreed upon by the parties,

(a) a party fails to act as required under such procedure, or

(b) the parties, or two arbitrators, are unable to reach an agreement expected of them under such procedure, or

(c) a third party, including an institution, fails to perform any function entrusted to it under such procedure,

any party may request the court or other authority specified in article 6 to take the necessary measure, unless the agreement on the appointment procedure provides other means for securing the appointment.

(5) A decision on a matter entrusted by paragraph (3) or (4) of this article to the court or other authority specified in article 6 shall be subject to no appeal. The court or other authority, in appointing an arbitrator, shall have due regard to any qualifications required of the arbitrator by the agreement of the parties and to such considerations as are likely to secure the appointment of an independent and impartial arbitrator and, in the case of a sole or third arbitrator, shall take into account as well the advisability of appointing an arbitrator of a nationality other than those of the parties.

Article 12. Grounds for challenge

(1) When a person is approached in connection with his possible appointment as an arbitrator, he shall disclose any circumstances likely to give rise to justifiable doubts as to his impartiality or independence. An arbitrator, from the time of his appointment and throughout the arbitral proceedings, shall without delay disclose any such circumstances to the parties unless they have already been informed of them by him.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 13. Challenge procedure

(1) The parties are free to agree on a procedure for challenging an arbitrator, subject to the provisions of paragraph (3) of this article.

(2) Failing such agreement, a party who intends to challenge an arbitrator shall, within fifteen days after becoming aware of the constitution of the arbitral tribunal or after becoming aware of any circumstance referred to in article 12(2), send a written statement of the reasons for the challenge to the arbitral tribunal. Unless the challenged arbitrator withdraws from his office or the other party agrees to the challenge, the arbitral tribunal shall decide on the challenge.

(3) If a challenge under any procedure agreed upon by the parties or under the procedure of paragraph (2) of this article is not successful, the challenging party may request, within thirty days after having received notice of the decision rejecting the challenge, the court or other authority specified in article 6 to decide on the challenge, which decision shall be subject to no appeal; while such a request is pending, the arbitral tribunal, including the challenged arbitrator, may continue the arbitral proceedings and make an award.

Article 14. Failure or impossibility to act

(1) If an arbitrator becomes de jure or de facto unable to perform his functions or for other reasons fails to act without undue delay, his mandate terminates if he withdraws from his office or if the parties agree on the termination. Otherwise, if a controversy remains concerning any of these grounds, any party may request the court or other authority specified in article 6 to decide on the termination of the mandate, which decision shall be subject to no appeal.

(2) If, under this article or article 13(2), an arbitrator withdraws from his office or a party agrees to the termination of the mandate of an arbitrator, this does not imply acceptance of the validity of any ground referred to in this article or article 12(2).

Article 15. Appointment of substitute arbitrator

Where the mandate of an arbitrator terminates under article 13 or 14 or because of his withdrawal from office for any other reason or because of the revocation of his mandate by agreement of the parties or in any other case of termination of his mandate, a substitute arbitrator shall be appointed according to the rules that were applicable to the appointment of the arbitrator being replaced.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

JURISDICTION OF ARBITRAL TRIBUNAL

Article 16. Competence of arbitral tribunal to rule on its jurisdiction

(1) The arbitral tribunal may rule on its own jurisdiction, including any objections with respect to the existence or validity of the arbitration agreement. For that purpose, an arbitration clause which forms part of a contract shall be treated as an agreement independent of the other terms of the con- tract. A decision by the arbitral tribunal that the contract is null and void shall not entail ipso jure the invalidity of the arbitration clause.

(2) A plea that the arbitral tribunal does not have jurisdiction shall be raised not later than the submission of the statement of defence. A party is not precluded from raising such a plea by the fact that he has appointed, or participated in the appointment of, an arbitrator. A plea that the arbitral tribunal is exceeding the scope of its authority shall be raised as soon as the matter alleged to be beyond the scope of its authority is raised during the arbitral proceedings. The arbitral tribunal may, in either case, admit a later plea if it considers the delay justified.

(3) The arbitral tribunal may rule on a plea referred to in paragraph (2) of this article either as a preliminary question or in an award on the merits. If the arbitral tribunal rules as a preliminary question that it has jurisdiction, any party may request, within thirty days after having received notice of that ruling, the court specified in article 6 to decide the matter, which decision shall be subject to no appeal; while such a request is pending, the arbitral tribunal may continue the arbitral proceedings and make an award.

Chapter IV A.

INTERIM MEASURES AND PRELIMINARY ORDERS

(As adopted by the Commission at its thirty-ninth session, in 2006)

Section 1. Interim measures

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(1) Unless otherwise agreed by the parties, the arbitral tribunal may, at the request of a party, grant interim measures.

(2) An interim measure is any temporary measure, whether in the form of an award or in another form, by which, at any time prior to the issuance of the award by which the dispute is finally decided, the arbitral tribunal orders a party to:

(a) Maintain or restore the status quo pending determination of the dispute;

(b) Take action that would prevent, or refrain from taking action that is likely to cause, current or imminent harm or prejudice to the arbitral process itself;

(c) Provide a means of preserving assets out of which a subsequent award may be satisfied; or

(d) Preserve evidence that may be relevant and material to the resolu- tion of the dispute.

Article 17 A. Conditions for granting interim measures

(1) The party requesting an interim measure under article 17(2)(a), (b) and (c) shall satisfy the arbitral tribunal that:

(a) Harm not adequately reparable by an award of damages is likely to result if the measure is not ordered, and such harm substantially outweighs the harm that is likely to result to the party against whom the measure is directed if the measure is granted; and

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(2) With regard to a request for an interim measure under article 17(2)(d), the requirements in paragraphs (1)(a) and (b) of this article shall apply only to the extent the arbitral tribunal considers appropriate.

Section 2. Preliminary orders

Article 17 B. Applications for preliminary orders and conditions for granting preliminary orders

(1) Unless otherwise agreed by the parties, a party may, without notice to any other party, make a request for an interim measure together with an application for a preliminary order directing a party not to frustrate the purpose of the interim measure requested.

(2) The arbitral tribunal may grant a preliminary order provided it considers that prior disclosure of the request for the interim measure to the party against whom it is directed risks frustrating the purpose of the measure.

(3) The conditions defined under article 17A apply to any preliminary order, provided that the harm to be assessed under article 17A(1)(a), is the harm likely to result from the order being granted or not.

Article 17 C. Specific regime for preliminary orders

(1) Immediately after the arbitral tribunal has made a determination in respect of an application for a preliminary order, the arbitral tribunal shall give notice to all parties of the request for the interim measure, the application for the preliminary order, the preliminary order, if any, and all other communications, including by indicating the content of any oral communication, between any party and the arbitral tribunal in relation thereto.

(2) At the same time, the arbitral tribunal shall give an opportunity to any party against whom a preliminary order is directed to present its case at the earliest practicable time.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(4) A preliminary order shall expire after twenty days from the date on which it was issued by the arbitral tribunal. However, the arbitral tribunal may issue an interim measure adopting or modifying the preliminary order, after the party against whom the preliminary order is directed has been given notice and an opportunity to present its case.

(5) A preliminary order shall be binding on the parties but shall not be subject to enforcement by a court. Such a preliminary order does not constitute an award.

Section 3. Provisions applicable to interim measures and preliminary orders

Article 17 D. Modification, suspension, termination

The arbitral tribunal may modify, suspend or terminate an interim measure or a preliminary order it has granted, upon application of any party or, in exceptional circumstances and upon prior notice to the parties, on the arbitral tribunal’s own initiative.

Article 17 E. Provision of security

(1) The arbitral tribunal may require the party requesting an interim measure to provide appropriate security in connection with the measure.

(2) The arbitral tribunal shall require the party applying for a preliminary order to provide security in connection with the order unless the arbitral tribunal considers it inappropriate or unnecessary to do so.

Article 17 F. Disclosure

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(2) The party applying for a preliminary order shall disclose to the arbitral tribunal all circumstances that are likely to be relevant to the arbitral tribunal’s determination whether to grant or maintain the order, and such obligation shall continue until the party against whom the order has been requested has had an opportunity to present its case. Thereafter, paragraph (1) of this article shall apply.

Article 17 G. Costs and damages

The party requesting an interim measure or applying for a preliminary order shall be liable for any costs and damages caused by the measure or the order to any party if the arbitral tribunal later determines that, in the circumstances, the measure or the order should not have been granted. The arbitral tribunal may award such costs and damages at any point during the proceedings.

Section 4. Recognition and enforcement of interim measures

Article 17 H. Recognition and enforcement

(1) An interim measure issued by an arbitral tribunal shall be recognized as binding and, unless otherwise provided by the arbitral tribunal, enforced upon application to the competent court, irrespective of the country in which it was issued, subject to the provisions of article 17 I.

(2) The party who is seeking or has obtained recognition or enforcement of an interim measure shall promptly inform the court of any termination, suspension or modification of that interim measure.

(3) The court of the State where recognition or enforcement is sought may, if it considers it proper, order the requesting party to provide appropriate security if the arbitral tribunal has not already made a determination with respect to security or where such a decision is necessary to protect the rights of third parties.

Article 17 I. Grounds for refusing recognition or enforcement 3

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(a) At the request of the party against whom it is invoked if the court is satisfied that:

(i) Such refusal is warranted on the grounds set forth in article 36(1)(a)(i), (ii), (iii) or (iv); or

(ii) The arbitral tribunal’s decision with respect to the provision of security in connection with the interim measure issued by the arbitral tribunal has not been complied with; or

(iii) The interim measure has been terminated or suspended by the arbitral tribunal or, where so empowered, by the court of the State in which the arbitration takes place or under the law of which that interim measure was granted; or

(b) If the court finds that:

(i) The interim measure is incompatible with the powers conferred upon the court unless the court decides to reformulate the interim measure to the extent necessary to adapt it to its own powers and procedures for the purposes of enforcing that interim measure and without modifying its substance; or

(ii) Any of the grounds set forth in article 36(1)(b)(i) or (ii), apply to the recognition and enforcement of the interim measure.

(2) Any determination made by the court on any ground in paragraph (1) of this article shall be effective only for the purposes of the application to recognize and enforce the interim measure. The court where recognition or enforcement is sought shall not, in making that determination, undertake a review of the substance of the interim measure.

Section 5. Court-ordered interim measures

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

A court shall have the same power of issuing an interim measure in relation to arbitration proceedings, irrespective of whether their place is in the territory of this State, as it has in relation to proceedings in courts. The court shall exercise such power in accordance with its own procedures in consideration of the specific features of international arbitration.

Chapter V.

CONDUCT OF ARBITRAL PROCEEDINGS

Article 18. Equal treatment of parties

The parties shall be treated with equality and each party shall be given a full opportunity of presenting his case.

Article 19. Determination of rules of procedure

(1) Subject to the provisions of this Law, the parties are free to agree on the procedure to be followed by the arbitral tribunal in conducting the proceedings.

(2) Failing such agreement, the arbitral tribunal may, subject to the provisions of this Law, conduct the arbitration in such manner as it considers appropriate. The power conferred upon the arbitral tribunal includes the power to determine the admissibility, relevance, materiality and weight of any evidence.

Article 20. Place of arbitration

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(2) Notwithstanding the provisions of paragraph (1) of this article, the arbitral tribunal may, unless otherwise agreed by the parties, meet at any place it considers appropriate for consultation among its members, for hearing witnesses, experts or the parties, or for inspection of goods, other property or documents.

Article 21. Commencement of arbitral proceedings

Unless otherwise agreed by the parties, the arbitral proceedings in respect of a particular dispute commence on the date on which a request for that dispute to be referred to arbitration is received by the respondent.

Article 22. Language

(1) The parties are free to agree on the language or languages to be used in the arbitral proceedings. Failing such agreement, the arbitral tribunal shall determine the language or languages to be used in the proceedings. This agreement or determination, unless otherwise specified therein, shall apply to any written statement by a party, any hearing and any award, decision or other communication by the arbitral tribunal.

(2) The arbitral tribunal may order that any documentary evidence shall be accompanied by a translation into the language or languages agreed upon by the parties or determined by the arbitral tribunal.

Article 23. Statements of claim and defence

(1) Within the period of time agreed by the parties or determined by the arbitral tribunal, the claimant shall state the facts supporting his claim, the points at issue and the relief or remedy sought, and the respondent shall state his defence in respect of these particulars, unless the parties have other- wise agreed as to the required elements of such statements. The parties may submit with their statements all documents they consider to be relevant or may add a reference to the documents or other evidence they will submit.

(2) Unless otherwise agreed by the parties, either party may amend or supplement his claim or defence during the course of the arbitral proceedings, unless the arbitral tribunal considers it inappropriate to allow such amendment having regard to the delay in making it.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(1) Subject to any contrary agreement by the parties, the arbitral tribunal shall decide whether to hold oral hearings for the presentation of evidence or for oral argument, or whether the proceedings shall be conducted on the basis of documents and other materials. However, unless the parties have agreed that no hearings shall be held, the arbitral tribunal shall hold such hearings at an appropriate stage of the proceedings, if so requested by a party.

(2) The parties shall be given sufficient advance notice of any hearing and of any meeting of the arbitral tribunal for the purposes of inspection of goods, other property or documents.

(3) All statements, documents or other information supplied to the arbitral tribunal by one party shall be communicated to the other party. Also any expert report or evidentiary document on which the arbitral tribunal may rely in making its decision shall be communicated to the parties.

Article 25. Default of a party

Unless otherwise agreed by the parties, if, without showing sufficient cause,

(a) the claimant fails to communicate his statement of claim in accordance with article 23(1), the arbitral tribunal shall terminate the proceedings;

(b) the respondent fails to communicate his statement of defence in accordance with article 23(1), the arbitral tribunal shall continue the proceed- ings without treating such failure in itself as an admission of the claimant’s allegations;

(c) any party fails to appear at a hearing or to produce documentary evidence, the arbitral tribunal may continue the proceedings and make the award on the evidence before it.

Article 26. Expert appointed by arbitral tribunal

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(a) may appoint one or more experts to report to it on specific issues to be determined by the arbitral tribunal;

(b) may require a party to give the expert any relevant information or to produce, or to provide access to, any relevant documents, goods or other property for his inspection.

(2) Unless otherwise agreed by the parties, if a party so requests or if the arbitral tribunal considers it necessary, the expert shall, after delivery of his written or oral report, participate in a hearing where the parties have the opportunity to put questions to him and to present expert witnesses in order to testify on the points at issue.

Article 27. Court assistance in taking evidence

The arbitral tribunal or a party with the approval of the arbitral tribunal may request from a competent court of this State assistance in taking evidence.

The court may execute the request within its competence and according to its rules on taking evidence.

Chapter VI.

MAKING OF AWARD AND TERMINATION OF PROCEEDINGS

Article 28. Rules applicable to substance of dispute

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(2) Failing any designation by the parties, the arbitral tribunal shall apply the law determined by the conflict of laws rules which it considers applicable.

(3) The arbitral tribunal shall decide ex aequo et bono or as amiable compositeur only if the parties have expressly authorized it to do so.

(4) In all cases, the arbitral tribunal shall decide in accordance with the terms of the contract and shall take into account the usages of the trade applicable to the transaction.

Article 29. Decision-making by panel of arbitrators

In arbitral proceedings with more than one arbitrator, any decision of the arbitral tribunal shall be made, unless otherwise agreed by the parties, by a majority of all its members. However, questions of procedure may be decided by a presiding arbitrator, if so authorized by the parties or all members of the arbitral tribunal.

Article 30. Settlement

(1) If, during arbitral proceedings, the parties settle the dispute, the arbitral tribunal shall terminate the proceedings and, if requested by the parties and not objected to by the arbitral tribunal, record the settlement in the form of an arbitral award on agreed terms.

(2) An award on agreed terms shall be made in accordance with the provi- sions of article 31 and shall state that it is an award. Such an award has the same status and effect as any other award on the merits of the case.

Article 31. Form and contents of award

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(2) The award shall state the reasons upon which it is based, unless the parties have agreed that no reasons are to be given or the award is an award on agreed terms under article 30.

(3) The award shall state its date and the place of arbitration as determined in accordance with article 20(1). The award shall be deemed to have been made at that place.

(4) After the award is made, a copy signed by the arbitrators in accordance with paragraph (1) of this article shall be delivered to each party.

Article 32. Termination of proceedings

(1) The arbitral proceedings are terminated by the final award or by an order of the arbitral tribunal in accordance with paragraph (2) of this article.

(2) The arbitral tribunal shall issue an order for the termination of the arbitral proceedings when:

(a) the claimant withdraws his claim, unless the respondent objects thereto and the arbitral tribunal recognizes a legitimate interest on his part in obtaining a final settlement of the dispute;

(b) the parties agree on the termination of the proceedings;

(c) the arbitral tribunal finds that the continuation of the proceedings has for any other reason become unnecessary or impossible.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 33. Correction and interpretation of award; additional award

(1) Within thirty days of receipt of the award, unless another period of time has been agreed upon by the parties:

(a) a party, with notice to the other party, may request the arbitral tribunal to correct in the award any errors in computation, any clerical or typographical errors or any errors of similar nature;

(b) if so agreed by the parties, a party, with notice to the other party, may request the arbitral tribunal to give an interpretation of a specific point or part of the award.

If the arbitral tribunal considers the request to be justified, it shall make the correction or give the interpretation within thirty days of receipt of the request. The interpretation shall form part of the award.

(2) The arbitral tribunal may correct any error of the type referred to in paragraph (1)(a) of this article on its own initiative within thirty days of the date of the award.

(3) Unless otherwise agreed by the parties, a party, with notice to the other party, may request, within thirty days of receipt of the award, the arbitral tribunal to make an additional award as to claims presented in the arbitral proceedings but omitted from the award. If the arbitral tribunal considers the request to be justified, it shall make the additional award within sixty days.

(4) The arbitral tribunal may extend, if necessary, the period of time within which it shall make a correction, interpretation or an additional award under paragraph (1) or (3) of this article.

(5) The provisions of article 31 shall apply to a correction or interpretation of the award or to an additional award.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

RECOURSE AGAINST AWARD

Article 34. Application for setting aside as exclusive recourse against arbitral award

(1) Recourse to a court against an arbitral award may be made only by an application for setting aside in accordance with paragraphs (2) and (3) of this article.

(2) An arbitral award may be set aside by the court specified in article 6 only if:

(a) the party making the application furnishes proof that:

(i) a party to the arbitration agreement referred to in article 7 was under some incapacity; or the said agreement is not valid under the law to which the parties have subjected it or, failing any indication thereon, under the law of this State; or

(ii) the party making the application was not given proper notice of the appointment of an arbitrator or of the arbitral proceedings or was otherwise unable to present his case; or

(iii) the award deals with a dispute not contemplated by or not fall- ing within the terms of the submission to arbitration, or contains decisions on matters beyond the scope of the submission to arbitration, provided that, if the decisions on matters submitted to arbitration can be separated from those not so submitted, only that part of the award which contains decisions on matters not submitted to arbitration may be set aside; or

(iv) the composition of the arbitral tribunal or the arbitral procedure was not in accordance with the agreement of the parties, unless such agreement was in conflict with a provision of this Law from which the parties cannot derogate, or, failing such agreement, was not in accordance with this Law; or

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(i) the subject-matter of the dispute is not capable of settlement by arbitration under the law of this State; or

(ii) the award is in conflict with the public policy of this State.

(3) An application for setting aside may not be made after three months have elapsed from the date on which the party making that application had received the award or, if a request had been made under article 33, from the date on which that request had been disposed of by the arbitral tribunal.

(4) The court, when asked to set aside an award, may, where appropriate and so requested by a party, suspend the setting aside proceedings for a period of time determined by it in order to give the arbitral tribunal an opportunity to resume the arbitral proceedings or to take such other action as in the arbitral tribunal’s opinion will eliminate the grounds for setting aside.

Chapter VIII.

RECOGNITION AND ENFORCEMENT OF AWARDS

Article 35. Recognition and enforcement

(1) An arbitral award, irrespective of the country in which it was made, shall be recognized as binding and, upon application in writing to the competent court, shall be enforced subject to the provisions of this article and of article 36.

(2) The party relying on an award or applying for its enforcement shall supply the original award or a copy thereof. If the award is not made in an official language of this State, the court may request the party to supply a translation thereof into such language. 4

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Article 36. Grounds for refusing recognition or enforcement

(1) Recognition or enforcement of an arbitral award, irrespective of the country in which it was made, may be refused only:

(a) at the request of the party against whom it is invoked, if that party furnishes to the competent court where recognition or enforcement is sought proof that:

(i) a party to the arbitration agreement referred to in article 7 was under some incapacity; or the said agreement is not valid under the law to which the parties have subjected it or, failing any indication thereon, under the law of the country where the award was made; or

(ii) the party against whom the award is invoked was not given proper notice of the appointment of an arbitrator or of the arbitral proceedings or was otherwise unable to present his case; or

(iii) the award deals with a dispute not contemplated by or not falling within the terms of the submission to arbitration, or it contains decisions on matters beyond the scope of the submission to arbitration, provided that, if the decisions on matters submitted to arbitration can be separated from those not so submitted, that part of the award which contains decisions on matters submitted to arbitration may be recognized and enforced; or

(iv) the composition of the arbitral tribunal or the arbitral procedure was not in accordance with the agreement of the parties or, failing such agreement, was not in accordance with the law of the country where the arbitration took place; or

(v) the award has not yet become binding on the parties or has been set aside or suspended by a court of the country in which, or under the law of which, that award was made; or

(b) if the court finds that:

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(ii) the recognition or enforcement of the award would be contrary to the public policy of this State.

(2) If an application for setting aside or suspension of an award has been made to a court referred to in paragraph (1)(a)(v) of this article, the court where recognition or enforcement is sought may, if it considers it proper, adjourn its decision and may also, on the application of the party claiming recognition or enforcement of the award, order the other party to provide appropriate security.

Part Two

EXPLANATORY NOTE BY THE UNCITRAL SECRETARIAT ON THE 1985 MODEL LAW ON INTERNATIONAL COMMERCIAL ARBITRATION AS AMENDED IN 2006 1

1. The UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration (“the Model Law”) was adopted by the United Nations Commission on International Trade Law (UNCITRAL) on 21 June 1985, at the end of the eighteenth session of the Commission. The General Assembly, in its resolution 40/72 of 11 December 1985, recommended “that all States give due consideration to the Model Law on International Commercial Arbitration, in view of the desirability of uniformity of the law of arbitral procedures and the specific needs of international commercial arbitration practice”. The Model Law was amended by UNCITRAL on 7 July 2006, at the thirty-ninth session of the Commission (see below, paragraphs 4, 19, 20, 27, 29 and 53). The General Assembly, in its resolution 61/33 of 4 December 2006, recommended “that all States give favourable consideration to the enactment of the revised articles of the UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, or the revised UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, when they enact or revise their laws (…)”.

2. The Model Law constitutes a sound basis for the desired harmonization and improvement of national laws. It covers all stages of the arbitral process from the arbitration agreement to the recognition and enforcement of the arbitral award and reflects a worldwide consensus on the principles and important issues of international arbitration practice. It is acceptable to States of all regions and the different legal or economic systems of the world. Since its adoption by UNCITRAL, the Model Law has come to represent the accepted international legislative standard for a modern arbitration law and a significant number of jurisdictions have enacted arbitration legislation based on the Model Law.

3. The form of a model law was chosen as the vehicle for harmonization and modernization in view of the flexibility it gives to States in preparing new Arbitration laws. Notwithstanding that flexibility, and in order to increase the likelihood of achieving a satisfactory degree of harmonization, States are encouraged to make as few changes as possible when incorporating the Model Law into their legal systems. Efforts to minimize variation from the text adopted by UNCITRAL are also expected to increase the visibility of harmonization, thus enhancing the confidence of foreign parties, as the primary users of international arbitration, in the reliability of arbitration law in the enacting State.

4. The revision of the Model Law adopted in 2006 includes article 2 A, which is designed to facilitate interpretation by reference to internationally accepted principles and is aimed at promoting a uniform understanding of the Model Law. Other substantive amendments to the Model Law relate to the form of the arbitration agreement and to interim measures. The original 1985 version of the provision on the form of the arbitration agreement (article 7) was modelled on the language used in article II (2) of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards (New York, 1958) (“the New York Convention”). The revision of article 7 is intended to address evolving practice in international trade and techno- logical developments. The extensive revision of article 17 on interim measures was considered necessary in light of the fact that such measures are increasingly relied upon in the practice of international commercial arbitration. The revision also includes an enforcement regime for such measures in recognition of the fact that the effectiveness of arbitration frequently depends upon the possibility of enforcing interim measures. The new provisions are contained in a new chapter of the Model Law on interim measures and preliminary orders (chapter IV A).

A. Background to the Model Law

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

1. Inadequacy of domestic laws

6. Recurrent inadequacies to be found in outdated national laws include provisions that equate the arbitral process with court litigation and fragmentary provisions that fail to address all relevant substantive law issues. Even most of those laws that appear to be up-to-date and comprehensive were drafted with domestic arbitration primarily, if not exclusively, in mind. While this approach is understandable in view of the fact that even today the bulk of cases governed by arbitration law would be of a purely domestic nature, the unfortunate consequence is that traditional local concepts are imposed on international cases and the needs of modern practice are often not met.

7. The expectations of the parties as expressed in a chosen set of arbitration rules or a “one-off” arbitration agreement may be frustrated, especially by mandatory provisions of applicable law. Unexpected and undesired restrictions found in national laws may prevent the parties, for example, from submitting future disputes to arbitration, from selecting the arbitrator freely, or from having the arbitral proceedings conducted according to agreed rules of procedure and with no more court involvement than appropriate. Frustration may also ensue from non-mandatory provisions that may impose undesired requirements on unwary parties who may not think about the need to provide otherwise when drafting the arbitration agreement. Even the absence of any legislative provision may cause difficulties simply by leaving un- answered some of the many procedural issues relevant in arbitration and not always settled in the arbitration agreement. The Model Law is intended to reduce the risk of such possible frustration, difficulties or surprise.

2. Disparity between national laws

8. Problems stemming from inadequate arbitration laws or from the absence of specific legislation governing arbitration are aggravated by the fact that national laws differ widely. Such differences are a frequent source of concern in international arbitration, where at least one of the parties is, and often both parties are, confronted with foreign and unfamiliar provisions and procedures. Obtaining a full and precise account of the law applicable to the arbitration is, in such circumstances often expensive, impractical or impossible.

9. Uncertainty about the local law with the inherent risk of frustration may adversely affect the functioning of the arbitral process and also impact on the selection of the place of arbitration. Due to such uncertainty, a party may hesitate or refuse to agree to a place, which for practical reasons would otherwise be appropriate. The range of places of arbitration acceptable to parties is thus widened and the smooth functioning of the arbitral proceedings is enhanced where States adopt the Model Law, which is easily recognizable, meets the specific needs of international commercial arbitration and provides an international standard based on solutions acceptable to parties from different legal systems.

B. Salient features of the Model Law

1. Special procedural regime for international commercial arbitration

10. The principles and solutions adopted in the Model Law aim at reducing or eliminating the above-mentioned concerns and difficulties. As a response to the inadequacies and disparities of national laws, the Model Law presents a special legal regime tailored to international commercial arbitration, without affecting any relevant treaty in force in the State adopting the Model Law. While the Model Law was designed with international commercial arbitration in mind, it offers a set of basic rules that are not, in and of themselves, unsuitable to any other type of arbitration. States may thus consider extending their enactment of the Model Law to cover also domestic disputes, as a number of enacting States already have.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

11. Article 1 defines the scope of application of the Model Law by reference to the notion of “international commercial arbitration”. The Model Law defines an arbitration as international if “the parties to an arbitration agreement have, at the time of the conclusion of that agreement, their places of business in different States” (article 1 (3)). The vast majority of situations commonly regarded as international will meet this criterion. In addition, article 1 (3) broadens the notion of internationality so that the Model Law also covers cases where the place of arbitration, the place of contract performance, or the place of the subject-matter of the dispute is situated outside the State where the parties have their place of business, or cases where the parties have expressly agreed that the subject-matter of the arbitration agreement relates to more than one country. Article 1 thus recognizes extensively the freedom of the parties to submit a dispute to the legal regime established pursuant to the Model Law.

12. In respect of the term “commercial”, the Model Law provides no strict definition. The footnote to article 1 (1) calls for “a wide interpretation” and offers an illustrative and open-ended list of relationships that might be described as commercial in nature, “whether contractual or not”. The purpose of the footnote is to circumvent any technical difficulty that may arise, for example, in determining which transactions should be governed by a specific body of “commercial law” that may exist in some legal systems.

13. Another aspect of applicability is the territorial scope of application. The principle embodied in article 1 (2) is that the Model Law as enacted in a given State applies only if the place of arbitration is in the territory of that State. However, article 1 (2) also contains important exceptions to that principle, to the effect that certain articles apply, irrespective of whether the place of arbitration is in the enacting State or elsewhere (or, as the case may be, even before the place of arbitration is determined). These articles are the following: articles 8 (1) and 9, which deal with the recognition of arbitration agreements, including their compatibility with interim measures ordered by a court, article 17 J on court-ordered interim measures, articles 17 H and 17 I on the recognition and enforcement of interim measures ordered by an arbitral tribunal, and articles 35 and 36 on the recognition and enforcement of arbitral awards.

14. The territorial criterion governing most of the provisions of the Model Law was adopted for the sake of certainty and in view of the following facts. In most legal systems, the place of arbitration is the exclusive criterion for determining the applicability of national law and, where the national law allows parties to choose the procedural law of a State other than that where the arbitration takes place, experience shows that parties rarely make use of that possibility. Incidentally, enactment of the Model Law reduces any need for the parties to choose a “foreign” law, since the Model Law grants the parties wide freedom in shaping the rules of the arbitral proceedings. In addition to designating the law governing the arbitral procedure, the territorial criterion is of considerable practical importance in respect of articles 11, 13, 14, 16, 27 and 34, which entrust State courts at the place of arbitration with functions of supervision and assistance to arbitration. It should be noted that the territorial criterion legally triggered by the parties’ choice regarding the place of arbitration does not limit the arbitral tribunal’s ability to meet at any place it considers appropriate for the conduct of the proceedings, as provided by article 20 (2).

(b) Delimitation of court assistance and supervision

15. Recent amendments to arbitration laws reveal a trend in favour of limiting and clearly defining court involvement in international commercial arbitration. This is justified in view of the fact that the parties to an arbitration agreement make a conscious decision to exclude court jurisdiction and prefer the finality and expediency of the arbitral process.

16. In this spirit, the Model Law envisages court involvement in the following instances. A first group comprises issues of appointment, challenge and termination of the mandate of an arbitrator (articles 11, 13 and 14), jurisdiction of the arbitral tribunal (article 16) and setting aside of the arbitral award (article 34). These instances are listed in article 6 as functions that should be entrusted, for the sake of centralization, specialization and efficiency, to a specially designated court or, with respect to articles 11, 13 and 14, possibly to another authority (for example, an arbitral institution or a chamber of commerce). A second group comprises issues of court assistance in taking evidence (article 27), recognition of the arbitration agreement, including its compatibility with court-ordered interim measures (articles 8 and 9), court-ordered interim measures (article 17 J), and recognition and enforcement of interim measures (articles 17 H and 17 I) and of arbitral awards (articles 35 and 36).

17. Beyond the instances in these two groups, “no court shall intervene, in matters governed by this Law”. Article 5 thus guarantees that all instances of possible court intervention are found in the piece of legislation enacting the Model Law, except for matters not regulated by it (for example, consolidation of arbitral proceedings, contractual relationship between arbitrators and parties or arbitral institutions, or fixing of costs and fees, including deposits). Protecting the arbitral process from unpredictable or disruptive court interference is essential to parties who choose arbitration (in particular foreign parties).

2. Arbitration agreement

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(a) Definition and form of arbitration agreement

19. The original 1985 version of the provision on the definition and form of arbitration agreement (article 7) closely followed article II (2) of the New York Convention, which requires that an arbitration agreement be in writing. If the parties have agreed to arbitrate, but they entered into the arbitration agreement in a manner that does not meet the form requirement, any party may have grounds to object to the jurisdiction of the arbitral tribunal. It was pointed out by practitioners that, in a number of situations, the drafting of a written document was impossible or impractical. In such cases, where the willingness of the parties to arbitrate was not in question, the validity of the arbitration agreement should be recognized. For that reason, article 7 was amended in 2006 to better conform to international contract practices. In amending article 7, the Commission adopted two options, which reflect two different approaches on the question of definition and form of arbitration agreement. The first approach follows the detailed structure of the original 1985 text. It confirms the validity and effect of a commitment by the parties to submit to Arbitration an existing dispute (“compromis”) or a future dispute (“clause compromis-soire”). It follows the New York Convention in requiring the written form of the arbitration agreement but recognizes a record of the “contents” of the agreement “in any form” as equivalent to traditional “writing”. The agreement to arbitrate may be entered into in any form (e.g. including orally) as long as the content of the agreement is recorded. This new rule is significant in that it no longer requires signatures of the parties or an exchange of messages between the parties. It modernizes the language referring to the use of electronic commerce by adopting wording inspired from the 1996 UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce and the 2005 United Nations Convention on the Use of Electronic Communications in International Contracts. It covers the situation of “an exchange of statements of claim and defence in which the existence of an agreement is alleged by one party and not denied by another”. It also states that “the reference in a contract to any document” (for example, general conditions) “containing an arbitration clause constitutes an arbitration agreement in writing provided that the reference is such as to make that clause part of the contract”. It thus clarifies that applicable contract law remains available to determine the level of consent necessary for a party to become bound by an arbitration agreement allegedly made “by reference”. The second approach defines the arbitration agreement in a manner that omits any form requirement. No preference was expressed by the Commission in favour of either option I or II, both of which are offered for enacting States to consider, depending on their particular needs, and by reference to the legal context in which the Model Law is enacted, including the general contract law of the enacting State. Both options are intended to preserve the enforceability of arbitration agreements under the New York Convention.

20. In that respect, the Commission also adopted, at its thirty-ninth session in 2006, a “Recommendation regarding the interpretation of article II, paragraph 2, and article VII, paragraph 1, of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done in New York, 10 June 1958” (A/61/17, Annex 2).2 The General Assembly, in its resolution 61/33 of 4 December 2006 noted that “in connection with the modernization of articles of the Model Law, the promotion of a uniform interpretation and application of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done in New York, 10 June 1958, is particularly timely”. The Recommendation was drafted in recognition of the widening use of electronic commerce and enactments of domestic legislation as well as case law, which are more favourable than the New York Convention in respect of the form requirement governing arbitration agreements, arbitration proceedings, and the enforcement of arbitral awards. The Recommendation encourages States to apply article II (2) of the New York Convention “recognizing that the circumstances described therein are not exhaustive”. In addition, the Recommendation encourages States to adopt the revised article 7 of the Model Law. Both options of the revised article 7 establish a more favourable regime for the recognition and enforcement of arbitral awards than that provided under the New York Convention. By virtue of the “more favourable law provision” contained in article VII (1) of the New York Convention, the Recommendation clarifies that “any interested party” should be allowed “to avail itself of rights it may have, under the law or treaties of the country where an arbitration agreement is sought to be relied upon, to seek recognition of the validity of such an arbitration agreement”.

(b) Arbitration agreement and the courts

21. Articles 8 and 9 deal with two important aspects of the complex relationship between the arbitration agreement and the resort to courts. Modelled on article II (3) of the New York Convention, article 8 (1) of the Model Law places any court under an obligation to refer the parties to arbitration if the court is seized with a claim on the same subject-matter unless it finds that the arbitration agreement is null and void, inoperative or incapable of being performed. The referral is dependent on a request, which a party may make not later than when submitting its first statement on the substance of the dispute. This provision, where adopted by a State enacting the Model Law, is by its nature binding only on the courts of that State. However, since article 8 is not limited in scope to agreements providing for arbitration to take place in the enacting State, it promotes the universal recognition and effect of international commercial arbitration agreements.

22. Article 9 expresses the principle that any interim measures of protection that may be obtained from courts under their procedural law (for example, pre-award attachments) are compatible with an arbitration agreement. That provision is ultimately addressed to the courts of any State, insofar as it establishes the compatibility between interim measures possibly issued by any court and an arbitration agreement, irrespective of the place of arbitration. Wherever a request for interim measures may be made to a court, it may not be relied upon, under the Model Law, as a waiver or an objection against the existence or effect of the arbitration agreement.

3. Composition of arbitral tribunal

23. Chapter III contains a number of detailed provisions on appointment, challenge, termination of mandate and replacement of an arbitrator. The chapter illustrates the general approach taken by the Model Law in eliminating difficulties that arise from inappropriate or fragmentary laws or rules. First, the approach recognizes the freedom of the parties to determine, by reference to an existing set of arbitration rules or by an ad hoc agreement, the procedure to be followed, subject to the fundamental requirements of fairness and justice. Secondly, where the parties have not exercised their freedom to lay down the rules of procedure or they have failed to cover a particular issue, the Model Law ensures, by providing a set of suppletive rules, that the arbitration may commence and proceed effectively until the dispute is resolved.

24. Where under any procedure, agreed upon by the parties or based upon the suppletive rules of the Model Law, difficulties arise in the process of appointment, challenge or termination of the mandate of an arbitrator, articles 11, 13 and 14 provide for assistance by courts or other competent authorities designated by the enacting State. In view of the urgency of matters relating to the composition of the arbitral tribunal or its ability to function, and in order to reduce the risk and effect of any dilatory tactics, short time-periods are set and decisions rendered by courts or other authorities on such matters are not appealable.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(a) Competence to rule on own jurisdiction

25. Article 16 (1) adopts the two important (not yet generally recognized) principles of “Kompetenz-Kompetenz” and of separability or autonomy of the arbitration clause. “Kompetenz-Kompetenz” means that the arbitral tribunal may independently rule on the question of whether it has jurisdiction, including any objections with respect to the existence or validity of the arbitration agreement, without having to resort to a court. Separability means that an arbitration clause shall be treated as an agreement independent of the other terms of the contract. As a consequence, a decision by the arbitral tribunal that the contract is null and void shall not entail ipso jure the invalidity of the arbitration clause. Detailed provisions in paragraph (2) require that any objections relating to the arbitrators’ jurisdiction be made at the earliest possible time.

26. The competence of the arbitral tribunal to rule on its own jurisdiction (i.e. on the foundation, content and extent of its mandate and power) is, of course, subject to court control. Where the arbitral tribunal rules as a preliminary question that it has jurisdiction, article 16 (3) allows for immediate court control in order to avoid waste of time and money. However, three procedural safeguards are added to reduce the risk and effect of dilatory tactics: short time-period for resort to court (30 days), court decision not appealable, and discretion of the arbitral tribunal to continue the proceedings and make an award while the matter is pending before the court. In those cases where the arbitral tribunal decides to combine its decision on jurisdiction with an award on the merits, judicial review on the question of jurisdiction is available in setting aside proceedings under article 34 or in enforcement proceedings under article 36.

(b) Power to order interim measures and preliminary orders

27. Chapter IV A on interim measures and preliminary orders was adopted by the Commission in 2006. It replaces article 17 of the original 1985 version of the Model Law. Section 1 provides a generic definition of interim measures and sets out the conditions for granting such measures. An important innovation of the revision lies in the establishment (in section 4) of a regime for the recognition and enforcement of interim measures, which was modelled, as appropriate, on the regime for the recognition and enforcement of arbitral awards under articles 35 and 36 of the Model Law.

28. Section 2 of chapter IV A deals with the application for, and conditions for the granting of, preliminary orders. Preliminary orders provide a means for preserving the status quo until the arbitral tribunal issues an interim measure adopting or modifying the preliminary order. Article 17 B (1) provides that “a party may, without notice to any other party, make a request for an interim measure together with an application for a preliminary order directing a party not to frustrate the purpose of the interim measure requested”. Article 17 B (2) permits an arbitral tribunal to grant a preliminary order if “it considers that prior disclosure of the request for the interim measure to the party against whom it is directed risks frustrating the purpose of the measure”. Article 17 C contains carefully drafted safeguards for the party against whom the preliminary order is directed, such as prompt notification of the application for the preliminary order and of the preliminary order itself (if any), and an opportunity for that party to present its case “at the earliest practicable time”. In any event, a preliminary order has a maximum duration of twenty days and, while binding on the parties, is not subject to court enforcement and does not constitute an award. The term “preliminary order” is used to emphasize its limited nature.

29. Section 3 sets out rules applicable to both preliminary orders and interim measures.

30. Section 5 includes article 17 J on interim measures ordered by courts in support of arbitration, and provides that “a court shall have the same power of issuing an interim measure in relation to arbitration proceedings irrespective of whether their place is in the territory of the enacting State, as it has in relation to proceedings in courts”. That article has been added in 2006 to put it beyond any doubt that the existence of an arbitration agreement does not infringe on the powers of the competent court to issue interim measures and that the party to such an arbitration agreement is free to approach the court with a request to order interim measures.

5. Conduct of arbitral proceedings

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

(a) Fundamental procedural rights of a party

32. Article 18 embodies the principles that the parties shall be treated with equality and given a full opportunity of presenting their case. A number of provisions illus- trate those principles. For example, article 24 (1) provides that, unless the parties have agreed that no oral hearings be held for the presentation of evidence or for oral argument, the arbitral tribunal shall hold such hearings at an appropriate stage of the proceedings, if so requested by a party. It should be noted that article 24 (1) deals only with the general entitlement of a party to oral hearings (as an alternative to proceedings conducted on the basis of documents and other materials) and not with the procedural aspects, such as the length, number or timing of hearings.

33. Another illustration of those principles relates to evidence by an expert appointed by the arbitral tribunal. Article 26 (2) requires the expert, after delivering his or her written or oral report, to participate in a hearing where the parties may put questions to the expert and present expert witnesses to testify on the points at issue, if such a hearing is requested by a party or deemed necessary by the arbitral tribunal. As another provision aimed at ensuring fairness, objectivity and impartiality, article 24 (3) provides that all statements, documents and other information supplied to the arbitral tribunal by one party shall be communicated to the other party, and that any expert report or evidentiary document on which the arbitral tribunal may rely in making its decision shall be communicated to the parties. In order to enable the parties to be present at any hearing and at any meeting of the arbitral tribunal for inspection purposes, they shall be given sufficient notice in advance (article 24 (2)).

(b) Determination of rules of procedure

34. Article 19 guarantees the parties’ freedom to agree on the procedure to be followed by the arbitral tribunal in conducting the proceedings, subject to a few mandatory provisions on procedure, and empowers the arbitral tribunal, failing agreement by the parties, to conduct the arbitration in such a manner as it considers appropriate. The power conferred upon the arbitral tribunal includes the power to determine the admissibility, relevance, materiality and weight of any evidence.

35. Autonomy of the parties in determining the rules of procedure is of special importance in international cases since it allows the parties to select or tailor the rules according to their specific wishes and needs, unimpeded by traditional and possibly conflicting domestic concepts, thus obviating the earlier mentioned risk of frustration or surprise (see above, paras. 7 and 9). The supplementary discretion of the arbitral tribunal is equally important in that it allows the tribunal to tailor the conduct of the proceedings to the specific features of the case without being hindered by any restraint that may stem from traditional local law, including any domestic rule on evidence. Moreover, it provides grounds for displaying initiative in solving any procedural question not regulated in the arbitration agreement or the Model Law.

36. In addition to the general provisions of article 19, other provisions in the Model Law recognize party autonomy and, failing agreement, empower the arbitral tribunal to decide on certain matters. Examples of particular practical importance in international cases are article 20 on the place of arbitration and article 22 on the language to be used in the proceedings.

(c) Default of a party

37. The arbitral proceedings may be continued in the absence of a party, provided that due notice has been given. This applies, in particular, to the failure of the respondent to communicate its statement of defence (article 25 (b)). The arbitral tribunal may also continue the proceedings where a party fails to appear at a hearing or to produce documentary evidence without showing sufficient cause for the failure (article 25 (c)). However, if the claimant fails to submit its statement of claim, the arbitral tribunal is obliged to terminate the proceedings (article 25 (a)).

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

6. Making of award and termination of proceedings

(a) Rules applicable to substance of dispute

39. Article 28 deals with the determination of the rules of law governing the substance of the dispute. Under paragraph (1), the arbitral tribunal decides the dispute in accordance with the rules of law chosen by the parties. This provision is significant in two respects. It grants the parties the freedom to choose the applicable substantive law, which is important where the national law does not clearly or fully recognize that right. In addition, by referring to the choice of “rules of law” instead of “law”, the Model Law broadens the range of options available to the parties as regards the designation of the law applicable to the substance of the dispute. For example, parties may agree on rules of law that have been elaborated by an international forum but have not yet been incorporated into any national legal system. Parties could also choose directly an instrument such as the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods as the body of substantive law governing the arbitration, without having to refer to the national law of any State party to that Convention. The power of the arbitral tribunal, on the other hand, follows more traditional lines. When the parties have not chosen the applicable law, the arbitral tribunal shall apply the law (i.e., the national law) determined by the conflict-of-laws rules that it considers applicable.

40. Article 28 (3) recognizes that the parties may authorize the arbitral tribunal to decide the dispute ex aequo et bono or as amiables compositeur. This type of arbitration (where the arbitral tribunal may decide the dispute on the basis of principles it believes to be just, without having to refer to any particular body of law) is currently not known or used in all legal systems. The Model Law does not intend to regulate this area. It simply calls the attention of the parties on the need to provide clarification in the arbitration agreement and specifically to empower the arbitral tribunal. However, paragraph (4) makes it clear that in all cases where the dispute relates to a contract (including arbitration ex aequo et bono) the arbitral tribunal must decide in accordance with the terms of the contract and shall take into account the usages of the trade applicable to the transaction.

(b) Making of award and other decisions

41. In its rules on the making of the award (articles 29-31), the Model Law focuses on the situation where the arbitral tribunal consists of more than one arbitrator. In such a situation, any award and other decision shall be made by a majority of the arbitrators, except on questions of procedure, which may be left to a presiding arbitrator. The majority principle applies also to the signing of the award, provided that the reason for any omitted signature is stated.

42. Article 31 (3) provides that the award shall state the place of arbitration and shall be deemed to have been made at that place. The effect of the deeming provision is to emphasize that the final making of the award constitutes a legal act, which in practice does not necessarily coincide with one factual event. For the same reason that the arbitral proceedings need not be carried out at the place designated as the legal “place of arbitration”, the making of the award may be completed through deliberations held at various places, by telephone or correspondence. In addition, the award does not have to be signed by the arbitrators physically gathering at the same place.

43. The arbitral award must be in writing and state its date. It must also state the reasons on which it is based, unless the parties have agreed otherwise or the award is “on agreed terms” (i.e., an award that records the terms of an amicable settlement by the parties). It may be added that the Model Law neither requires nor prohibits “dissenting opinions”.

7. Recourse against award

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

That situation (of considerable concern to those involved in international commercial arbitration) is greatly improved by the Model Law, which provides uniform grounds upon which (and clear time periods within which) recourse against an arbitral award may be made.

(a) Application for setting aside as exclusive recourse

45. The first measure of improvement is to allow only one type of recourse, to the exclusion of any other recourse regulated in any procedural law of the State in question. Article 34 (1) provides that the sole recourse against an arbitral award is by application for setting aside, which must be made within three months of receipt of the award (article 34 (3)). In regulating “recourse” (i.e., the means through which a party may actively “attack” the award), article 34 does not preclude a party from seeking court control by way of defence in enforcement proceedings (articles 35 and 36). Article 34 is limited to action before a court (i.e., an organ of the judicial system of a State). However, a party is not precluded from appealing to an arbitral tribunal of second instance if the parties have agreed on such a possibility (as is common in certain commodity trades).

(b) Grounds for setting aside

46. As a further measure of improvement, the Model Law lists exhaustively the grounds on which an award may be set aside. This list essentially mirrors that contained in article 36 (1), which is taken from article V of the New York Convention. The grounds provided in article 34 (2) are set out in two categories. Grounds which are to be proven by one party are as follows: lack of capacity of the parties to conclude an arbitration agreement; lack of a valid arbitration agreement; lack of notice of appointment of an arbitrator or of the arbitral proceedings or inability of a party to present its case; the award deals with matters not covered by the submission to arbitration; the composition of the arbitral tribunal or the conduct of arbitral proceedings are contrary to the effective agreement of the parties or, failing such agreement, to the Model Law. Grounds that a court may consider of its own initiative are as follows: non-arbitrability of the subject-matter of the dispute or violation of public policy (which is to be understood as serious departures from fundamental notions of procedural justice).

47. The approach under which the grounds for setting aside an award under the Model Law parallel the grounds for refusing recognition and enforcement of the award under article V of the New York Convention is reminiscent of the approach taken in the European Convention on International Commercial Arbitration (Geneva, 1961). Under article IX of the latter Convention, the decision of a foreign court to set aside an award for a reason other than the ones listed in article V of the New York Convention does not constitute a ground for refusing enforcement. The Model Law takes this philosophy one step further by directly limiting the reasons for setting aside.

48. Although the grounds for setting aside as set out in article 34 (2) are almost identical to those for refusing recognition or enforcement as set out in article 36 (1), a practical difference should be noted. An application for setting aside under article 34 (2) may only be made to a court in the State where the award was rendered whereas an application for enforcement might be made in a court in any State. For that reason, the grounds relating to public policy and non-arbitrability may vary in substance with the law applied by the court (in the State of setting aside or in the State of enforcement).

8. Recognition and enforcement of awards

49. The eighth and last chapter of the Model Law deals with the recognition and enforcement of awards. Its provisions reflect the significant policy decision that the same rules should apply to arbitral awards whether made in the country of enforcement or abroad, and that those rules should follow closely the New York Convention.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

50. By treating awards rendered in international commercial arbitration in a uniform manner irrespective of where they were made, the Model Law distinguishes between “international” and “non-international” awards instead of relying on the traditional distinction between “foreign” and “domestic” awards. This new line is based on substantive grounds rather than territorial borders, which are inappropriate in view of the limited importance of the place of arbitration in international cases. The place of arbitration is often chosen for reasons of convenience of the parties and the dispute may have little or no connection with the State where the arbitration legally takes place. Consequently, the recognition and enforcement of “international” awards, whether “foreign” or “domestic”, should be governed by the same provisions.

51. By modelling the recognition and enforcement rules on the relevant provisions of the New York Convention, the Model Law supplements, without conflicting with, the regime of recognition and enforcement created by that successful Convention.

(b) Procedural conditions of recognition and enforcement

52. Under article 35 (1) any arbitral award, irrespective of the country in which it was made, shall be recognized as binding and enforceable, subject to the provisions of article 35 (2) and of article 36 (the latter of which sets forth the grounds on which recognition or enforcement may be refused). Based on the above consideration of the limited importance of the place of arbitration in international cases and the desire of overcoming territorial restrictions, reciprocity is not included as a condition for recognition and enforcement.

53. The Model Law does not lay down procedural details of recognition and enforcement, which are left to national procedural laws and practices. The Model Law merely sets certain conditions for obtaining enforcement under article 35 (2). It was amended in 2006 to liberalize formal requirements and reflect the amendment made to article 7 on the form of the arbitration agreement. Presentation of a copy of the arbitration agreement is no longer required under article 35 (2).

(c) Grounds for refusing recognition or enforcement

54. Although the grounds on which recognition or enforcement may be refused under the Model Law are identical to those listed in article V of the New York Convention, the grounds listed in the Model Law are relevant not only to foreign awards but to all awards rendered in the sphere of application of the piece of legislation enacting the Model Law. Generally, it was deemed desirable to adopt, for the sake of harmony, the same approach and wording as this important Convention. However, the first ground on the list as contained in the New York Convention (which provides that recognition and enforcement may be refused if “the parties to the arbitration agreement were, under the law applicable to them, under some incapacity”) was modified since it was viewed as containing an incomplete and potentially misleading conflict-of-laws rule.

Further information on the Model Law may be obtained from:

UNCITRAL secretariat

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

P.O. Box 500

1400 Vienna

Austria

 

Telephone:  (+43-1)  26060-4060

Telefax: (+43-1) 26060-5813

Internet:  www.uncitral.org

E-mail:  [email protected]

 

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

RECOMMENDATION REGARDING THE INTERPRETATION OF ARTICLE II, PARAGRAPH 2, AND ARTICLE VII, PARAGRAPH 1, OF THE CONVENTION ON THE RECOGNITION AND ENFORCEMENT OF FOREIGN ARBITRAL AWARDS, DONE IN NEW YORK, 10 JUNE 1958, ADOPTED BY THE UNITED NATIONS COMMISSION ON INTERNATIONAL TRADE LAW ON 7 JULY 2006 AT ITS THIRTY-NINTH SESSION

The United Nations Commission on International Trade Law,

Recalling General Assembly resolution 2205 (XXI) of 17 December 1966, which established the United Nations Commission on International Trade Law with the object of promoting the progressive harmonization and unification of the law of international trade by, inter alia, promoting ways and means of ensuring a uniform interpretation and application of international conventions and uniform laws in the field of the law of international trade,

Conscious of the fact that the different legal, social and economic systems of the world, together with different levels of development, are represented in the Commission,

Recalling successive resolutions of the General Assembly reaffirming the man- date of the Commission as the core legal body within the United Nations system in the field of international trade law to coordinate legal activities in this field,

Convinced that the wide adoption of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done in New York on 10 June 1958, 1 has been a significant achievement in the promotion of the rule of law, particularly in the field of international trade,

Recalling that the Conference of Plenipotentiaries which prepared and opened the Convention for signature adopted a resolution, which states, inter alia, that the Conference “considers that greater uniformity of national laws on arbitration would further the effectiveness of arbitration in the settlement of private law disputes”,

Bearing in mind differing interpretations of the form requirements under the Convention that result in part from differences of expression as between the five equally authentic texts of the Convention,

Taking into account article VII, paragraph 1, of the Convention, a purpose of which is to enable the enforcement of foreign arbitral awards to the greatest extent, in particular by recognizing the right of any interested party to avail itself of law or treaties of the country where the award is sought to be relied upon, including where such law or treaties offer a regime more favourable than the Convention,

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

Taking into account international legal instruments, such as the 1985 UNCITRAL Model Law on International Commercial Arbitration, 2 as subsequently revised, particularly with respect to article 7, 3 the UNCITRAL Model Law on Electronic Commerce, 4 the UNCITRAL Model Law on Electronic Signatures 5 and the United Nations Convention on the Use of Electronic Communications in Inter- national Contracts, 6

Taking into account also enactments of domestic legislation, as well as case law, more favourable than the Convention in respect of form requirement governing arbitration agreements, arbitration proceedings and the enforcement of arbitral awards,

Considering that, in interpreting the Convention, regard is to be had to the need to promote recognition and enforcement of arbitral awards,

1. Recommends that article II, paragraph 2, of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done in New York, 10 June 1958, be applied recognizing that the circumstances described therein are not exhaustive;

2. Recommends also that article VII, paragraph 1, of the Convention on the Recognition and Enforcement of Foreign Arbitral Awards, done in New York, 10 June 1958, should be applied to allow any interested party to avail itself of rights it may have, under the law or treaties of the country where an arbitration agreement is sought to be relied upon, to seek recognition of the validity of such an arbitration agreement.

 

1 Official Records of the General Assembly, Fortieth Session, Supplement No. 17 (A/40/17), annex I.

1 Article headings are for reference purposes only and are not to be used for purposes of interpretation.

...

...

...

Bạn phải đăng nhập hoặc đăng ký Thành Viên TVPL Pro để sử dụng được đầy đủ các tiện ích gia tăng liên quan đến nội dung TCVN.

Mọi chi tiết xin liên hệ: ĐT: (028) 3930 3279 DĐ: 0906 22 99 66

3 The conditions set forth in article 17 I are intended to limit the number of circumstances in which the court may refuse to enforce an interim measure. It would not be contrary to the level of harmonization sought to be achieved by these model provisions if a State were to adopt fewer circumstances in which enforcement may be refused.

4 The conditions set forth in this paragraph are intended to set maximum standards. It would, thus, not be contrary to the harmonization to be achieved by the model law if a State retained even less onerous conditions.

2 Reproduced in Part Three hereafter.

2 Official Records of the General Assembly, Fortieth Session, Supplement No. 17 (A/40/17), annex I,  and United Nations publication, Sales No. E.95.V.18.

3 Ibid., Sixty-first Session, Supplement No. 17 (A/61/17), annex I.

4 Ibid., Fifty-first Session, Supplement No. 17 (A/51/17), annex I, and United Nations publication, Sales No. E.99.V.4, which contains also an additional article 5 bis, adopted in 1998, and the accompanying Guide to Enactment.

5 Ibid., Fifty-sixth Session, Supplement No. 17 and corrigendum (A/56/17 and Corr.3), annex II, and United Nations publication, Sales No. E.02.V.8, which contains also the accompanying Guide to Enactment.

6 General Assembly resolution 60/21, annex.

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


Luật mẫu về Trọng tài thương mại quốc tế của Ủy ban liên hiệp quốc về Luật thương mại quốc tế năm 1985

Bạn Chưa Đăng Nhập Thành Viên!


Vì chưa Đăng Nhập nên Bạn chỉ xem được Thuộc tính của văn bản.
Bạn chưa xem được Hiệu lực của Văn bản, Văn bản liên quan, Văn bản thay thế, Văn bản gốc, Văn bản tiếng Anh,...


Nếu chưa là Thành Viên, mời Bạn Đăng ký Thành viên tại đây


50.786

DMCA.com Protection Status
IP: 3.139.87.113
Hãy để chúng tôi hỗ trợ bạn!