BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ
PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 4935/BNN-KH
V/v trả lời kiến nghị cử tri trước kỳ họp
thứ 3, Quốc hội khóa XV
|
Hà Nội, ngày 29
tháng 7 năm 2022
|
Kính
gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang
Bộ Nông nghiệp và PTNT đã nhận
được kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang do Văn phòng Chính phủ chuyển đến theo
công văn số 3864/VPCP-ĐHQP ngày 23 tháng 6 năm 2022, nội dung kiến nghị như sau:
Nội dung kiến nghị (Câu số
89)
Cử tri đề nghị có những chính
sách và giải pháp hỗ trợ kịp thời cho người nông dân trong sản xuất nông
nghiệp, vì trong hai năm qua do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, gây thiệt hại
rất lớn cho sản xuất nông nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung; từ đó giá
cả thị trường luôn biến động, nhất là giá xăng dầu và vật tư nông nghiệp tăng
cao, trong khi giá nông sản (lúa, cá …) lại thiếu ổn định, nông dân sản xuất
không có lãi như trước đây. Ngoài ra, cử tri đề nghị giảm các loại phí và thuế
nhập khẩu các mặt hàng trên, nhằm làm giảm giá thành và chi phí đầu vào cho
nông dân.
Bộ Nông nghiệp và PTNT xin
trả lời như sau:
Trong hai năm qua, diễn biến
thị trường vật tư nông nghiệp, thức ăn chăn nuôi, đặc biệt là phân bón trong
nước biến động lớn; nguyên nhân chính là do nguồn nguyên liệu trên chủ yếu phụ
thuộc vào nhập khẩu, đặc biệt trong bối cảnh tình hình dịch bệnh Covid-19, xung
đột quân sự Nga - Ukraine làm đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu. Bên cạnh đó, giá
xăng dầu liên tục tăng cao làm tăng giá cả nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nông
nghiệp. Cụ thể: Phân Urê tăng 136 - 143%, DAP tăng 143 - 164%, Kali tăng 180 -
200% so với tháng 12 năm 2021. Giá nguyên liệu làm thức ăn chăn nuôi tăng 30 -
45%, giá thức ăn chăn nuôi thành phẩm tăng từ 30 - 35% so với tháng 12 năm 2021.
Giá dầu Diesel 0.05S, nhiên liệu chính cho tàu khai thác thủy sản đã tăng lên
65% (ngày 25/12/2021 là 17.579 đồng/lít đến ngày 20/6/2022 là 29.020 đồng/lít,
tăng thêm 11.441 đồng/lít). Như vậy chi phí nhiên liệu để đảm bảo cho hoạt động
khai thác thủy sản bình thường tăng thêm khoảng 3.776 tỷ đồng/tháng, cộng thêm giá
các mặt hàng khác tăng theo 10 - 20%, kéo theo chi phí chuyến biển tăng cao...
Trước thực trạng trên, Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã chủ động, phối hợp với các Bộ, ngành liên quan triển khai thực hiện
một số giải pháp, như:
- Giám sát nguồn cung, giá bán
nông sản: (i) Hướng dẫn địa phương điều chỉnh kế hoạch tổ chức sản xuất, mùa vụ
phù hợp với điều kiện thời tiết và theo tín hiệu thị trường, giúp người nông
dân có thu nhập ổn định và có lãi; (ii) Chuyển đổi từ tư duy sản xuất nông
nghiệp sang tư duy kinh tế nông nghiệp theo hướng tích hợp đa giá trị, đa
ngành; phát triển nông nghiệp tuần hoàn; (iii) Tổ chức lại sản xuất, nhất là
liên kết sản xuất; tăng cường sơ chế, bảo quản và chế biến sâu; thúc đẩy hợp
tác, liên kết theo chuỗi ngành hàng để phù hợp với yêu cầu của thị trường và
giảm chi phí, tăng năng lực cạnh tranh; (iv) Phát huy công tác khuyến nông cộng
đồng hướng đến “giảm chi phí - tăng chất lượng”; hướng dẫn người dân canh tác
hiệu quả, giảm vật tư đầu vào, tận dụng phế phụ phẩm nông nghiệp.
- Tăng cường minh bạch hóa
thông tin giá cả, thị trường nhằm hạn chế thông tin thất thiệt gây bất ổn thị
trường; truyền thông nâng cao nhận thức, khuyến cáo về sản xuất nhằm đảm bảo
cân đối cung cầu hàng hóa, hạn chế tình trạng dư thừa hàng hóa trên thị trường.
- Hỗ trợ thúc đẩy tiêu thụ nông
sản: (i) Tổ chức kết nối tiêu thụ sản phẩm nông sản đặc sản địa phương tới thị trường
các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh thông qua các diễn đàn trọng
điểm; (ii) Tổ chức xúc tiến thương mại, giới thiệu, quảng bá sản phẩm nông sản
chất lượng cao, an toàn, hữu cơ, sản phẩm OCOP thông qua các sự kiện lớn như
hội chợ, triển lãm và các phiên chợ, điểm giới thiệu; (iii) Phối hợp triển khai
các hoạt động hợp tác với các cơ quan, hiệp hội, doanh nghiệp phân phối,
logistic lớn để hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp, HTX nông nghiệp; thúc
đẩy tiêu thụ nông sản thông qua các kênh phân phối hiện đại, nâng cao ý thức về
đảm chất lượng, nguồn gốc xuất xứ và hạn chế các vấn đề bất ổn về giá cả...
Bên cạnh các giải pháp đồng bộ
hỗ trợ cho nông dân trong sản xuất nông nghiệp, Bộ Nông nghiệp và phát triển
cũng đã chủ động trình hoặc phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan trình Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ kịp thời ban hành các chính sách hỗ trợ cho nông dân
như: Hỗ trợ sản xuất giống gốc, giống đầu dòng (Quyết định số 703/QĐ-TTg ngày 28/5/2020;
thực hiện chính hỗ trợ bảo hiểm nông nghiệp (Quyết định số 13/2022/QĐ-TTg ngày
09/5/2022); một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động
gặp khó khăn cho đại dịch covid trong đó có người lao động trong lĩnh vực nông
nghiệp (Nghị quyết số 68/NQ-CP ngày 01/7/2021), Chương trình phục hồi và phát
triển kinh tế - xã hội - trong đó có các nội dung về giảm các loại phí và thuế
nhập khẩu ... (Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022)...
Tuy nhiên, việc tổ chức thực
hiện nhiều giải pháp, chính sách chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Để hỗ trợ
kịp thời cho người nông dân trong sản xuất nông nghiệp; thời gian tới, Bộ Nông nghiệp
và PTNT tiếp tục triển khai thực hiện các giải pháp và chính sách sau:
1. Một số giải pháp cụ
thể:
- Phối hợp với Bộ Công Thương,
các địa phương đánh giá cân bằng cung - cầu nông sản, điều tiết xuất nhập khẩu
vật tư đầu vào; tăng cường kiểm tra công khai giá, chất lượng phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, thức ăn chăn nuôi. Kiểm soát chặt chẽ nguồn cung nông sản,
triển khai xây dựng cơ sở dữ liệu cung cầu nông sản làm công cụ theo dõi sản
lượng cung cầu, qua đó đưa ra các kịch bản và giải pháp can thiệp cần thiết
điều tiết cung cầu từng nhóm hàng và từng khu vực trong các tình huống.
- Phối hợp với các Bộ, ngành,
địa phương, Hiệp hội ngành hàng, Doanh nghiệp tập trung, liên kết chặt chẽ với
các vùng nguyên liệu, đẩy mạnh chế biến, chế biến sâu, nâng cao giá trị gia
tăng. Thúc đẩy sản xuất theo chuỗi sản phẩm, xây dựng mã định danh, mã số vùng
trồng, truy xuất được nguồn gốc sản phẩm, đảm bảo an toàn thực phẩm.
- Kiểm tra, kiểm soát chất
lượng và giá vật tư đầu vào phục vụ sản xuất nông nghiệp. Phối hợp với các Bộ,
ngành, địa phương tăng cường kiểm tra, kiểm soát giá nguyên liệu và giá thành
sản xuất phân bón, thức ăn chăn nuôi, tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho hoạt
động nhập khẩu (về nguồn hàng, ưu tiên về giá, chất lượng, vận chuyển, lưu
thông) nhằm đảm bảo nguồn cung, ổn định giá cả, tạo điều kiện để Doanh nghiệp
và người dân yên tâm sản xuất. Đồng thời, thực hiện các giải pháp khắc phục
tình trạng thiếu giống, vật tư nông nghiệp phục vụ sản xuất; tăng cường sử dụng
thức ăn tinh, giảm thức ăn thô và tận dụng tối đa phụ phẩm trong sản xuất, chế
biến nông sản.
- Tăng cường kết nối tiêu thụ
nông sản, khai thác tối đa các kênh thương mại điện tử, hạn chế khâu trung
gian. Phối hợp với Bộ Công Thương, các địa phương tổ chức kết nối, giới thiệu
Doanh nghiệp liên kết hợp đồng tiêu thụ, bảo quản, chế biến nông sản; tháo gỡ
khó khăn, đẩy mạnh quảng bá tiêu thụ trong nước, ưu tiên tiêu thụ sản phẩm nông
sản gặp khó khăn tại địa phương. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất, kinh doanh tham gia
các hoạt động xúc tiến thương mại.
- Tăng cường công tác thông
tin, dự báo tình hình cung cầu nông sản. Xây dựng các chương trình truyền thông
dài hạn, phạm vi toàn ngành và phát triển các công cụ dự báo thị trường nông
sản.
- Báo cáo Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ có những cơ chế, chính sách hỗ trợ để người dân yên tâm sản xuất, như
chính sách hỗ trợ về an sinh xã hội cho thuyền viên tàu cá tạm ngừng hoạt động
sản xuất do giá nhiên liệu tăng...
2. Cơ chế, chính sách:
- Tiếp tục hoàn thiện cơ
chế, chính sách hỗ trợ người sản xuất kinh doanh nông nghiệp tạo động lực mới
cho phát triển “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân văn
minh”, nhất là chính sách đất đai, đầu tư, hợp tác công tư, tín dụng, bảo
hiểm...Đồng thời, tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách đã ban hành nhằm
tạo điều kiện thuận lợi cho người dân phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập,
ổn định đời sống, yên tâm sản xuất.
Đối với tỉnh An Giang nói riêng
và các tỉnh thuộc vùng ĐBSCL nói chung, Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp tục: Nghiên
cứu, hoàn thiện chính sách hỗ trợ nông dân phát triển sản xuất kinh doanh thực chất
và hiệu quả hơn, góp phần thực hiện các mục tiêu, định hướng phát triển nông
nghiệp, nông thôn vùng ĐBSCL theo Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 02/4/2022 của Bộ
Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an
ninh vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Nghị quyết số 78/NQ-CP
ngày 18/6/2022 ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị
quyết số 13-NQ/TW; Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2018; Quy hoạch vùng ĐBSCL
thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050; Chương trình tổng thể phát triển
nông nghiệp, thích ứng với BĐKH vùng ĐBSCL đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045;
Chỉ thị số 10/CT-TTg ngày 18/6/2022 về một số nhiệm vụ thúc đẩy phát triển nông
nghiệp và nông thôn bền vững vùng ĐBSCL, chủ động thích ứng BĐKH.
Ngoài ra, đối với
đề nghị giảm các loại phí và thuế nhập khẩu đối với các mặt hàng nêu trên,
trong thời gian tới:
- Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp
tục triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của
Chính phủ về Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là
nhiệm vụ hỗ trợ phục hồi doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh liên quan đến
miễn, giảm thuế, lệ phí.
- Bộ Nông nghiệp và PTNT tiếp
tục theo dõi diễn biến tình hình giá cả thị trường các mặt hàng đầu vào cho sản
xuất nông nghiệp và có phối hợp kịp thời với Bộ Tài chính kiến nghị Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ có các chính sách điều chỉnh phù hợp nhằm làm giảm giá thành và
chi phí đầu vào cho nông dân.
Trên đây là trả lời của Bộ Nông
nghiệp và PTNT đối với kiến nghị của cử tri tỉnh An Giang; trân trọng cảm ơn cử
tri tỉnh An Giang đã quan tâm đến sự phát triển của ngành nông nghiệp, nông thôn;
xin gửi tới Đoàn đại biểu Quốc hội tỉnh An Giang để trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng;
- Thứ trưởng Trần Thanh Nam;
- Văn phòng Chính phủ (Vụ QHĐP);
- VP Bộ (Phòng Tổng hợp);
- Lưu: VT, KH.
|
BỘ TRƯỞNG
Lê Minh Hoan
|