BỘ
NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN
NÔNG THÔN
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 6977/BNN-KH
V/v trả lời kiến nghị cử tri
sau Kỳ họp thứ 1 Quốc hội khóa XV
|
Hà
Nội, ngày 26 tháng 10 năm 2021
|
Kính
gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội thành phố Hải Phòng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn nhận được kiến nghị của cử tri thành phố Hải Phòng do Ban Dân nguyện
chuyển đến theo công văn số 277/BDN ngày 30/8/2021, nội dung kiến nghị như sau:
Nội dung kiến nghị (Câu số 10):
Đề nghị Chính phủ ban hành các cơ
chế, chính sách đầu tư phát triển một cách đồng bộ cho nông
nghiệp, nông thôn; khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, người
dân tích tụ ruộng đất, đầu tư ứng dụng công nghệ cao, liên kết theo chuỗi giá
trị, nhất là khâu thu mua, chế biến và tiêu thụ nông sản; quy hoạch vùng sản
xuất hàng hóa quy mô lớn theo tiêu chuẩn VietGap; chỉ đạo các Bộ, ngành hỗ trợ
địa phương, doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá
thương hiệu cho các sản phẩm nông nghiệp.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn xin trả lời như sau:
Phát triển nông nghiệp, nông dân,
nông thôn là chủ trương lớn được Đảng và Nhà nước quan tâm và khuyến khích, ưu
tiên đầu tư. Trong 5 năm (2016 - 2020), Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, ngành, địa phương đã ban hành và tổ chức triển
khai thực hiện nhiều văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính
sách về phát triển nông nghiệp, nông thôn (06 Luật[1], 50 Nghị định,
15 Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 197 văn bản của Bộ Nông nghiệp và PTNT).
Các văn bản cơ chế, chính sách được ban hành đã và đang phát huy hiệu quả trong
huy động nguồn lực đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn; hỗ trợ người dân, doanh
nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp hàng hóa theo hướng hiện đại,
bền vững. Cụ thể như sau:
1. Các cơ
chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn thực
hiện theo Nghị quyết 26/2012/QH13 của Quốc hội, các Chương trình mục tiêu Quốc
gia (xây dựng nông thôn mới, giảm nghèo bền vững) và các Chương trình mục tiêu
(Phát triển kinh tế thủy sản bền vững; Phát triển lâm nghiệp bền vững; Tái cơ
cấu kinh tế nông nghiệp và phòng chống giảm nhẹ thiên tai, ổn định đời sống dân
cư); các Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ (Nghị định
số 67/2014/NĐ-CP , số 89/2015/NĐ-CP và số 17/2018/NĐ-CP về một số chính sách
phát triển thủy sản; Quyết định số 98/2018/NĐ-CP về chính sách khuyến khích
phát triển hợp tác, liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp...). Ngoài sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, Chính phủ
khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn
thông qua các cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ doanh
nghiệp theo Nghị định số 57/2018/NĐ-CP ; hỗ trợ đầu tư phát triển khu, vùng,
doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao theo các Quyết định: số 1859/QĐ-TTg ngày
17/12/2012, số 19/2018/QĐ-TTg ngày 19/4/2018… Theo đó, nhà
đầu tư được ưu đãi sử dụng, thuê đất đai, mặt bằng, ưu đãi
về thuế, hỗ trợ tín dụng, đào tạo lao động, phát triển thị trường, đầu tư hạ
tầng.
Thực hiện Luật Đất đai và các văn bản
hướng dẫn thi hành; Bộ Nông nghiệp và PTNT đã ban hành Quyết định số 586/QĐ-BNN-TT ngày 12/02/2018 về Kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng
trên đất trồng lúa. Thời gian qua, các địa phương đã chủ động thúc đẩy tích tụ,
tập trung ruộng đất, tặng hạn mức sử dụng đất tháo gỡ nút thắt “hạn điền”, đã
chuyển đổi gần 470 ngàn ha (giai đoạn 2016 - 2020) đất trồng lúa kém hiệu quả
sang cây trồng, vật nuôi, nuôi trồng thủy sản có hiệu quả kinh tế cao hơn. Trên
cơ sở đó, tăng cường liên kết giữa hộ nông dân, tổ chức của nông dân và nhà đầu
tư để tích hợp đa giá trị trong sản xuất tập trung, quy mô lớn, gắn với vùng
nguyên liệu, thuận lợi cho ứng dụng công nghệ cao, chuyển đổi số; nhằm giảm chi
phí, nâng cao hiệu quả sản xuất.
Bên cạnh đó, Bộ đã xây dựng, trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt các Chiến lược phát triển các ngành, lĩnh vực
(Trồng trọt, chăn nuôi, Lâm nghiệp, Thủy sản, Thủy lợi, Phòng chống thiên tai).
Công tác quy hoạch luôn được quan tâm, chú trọng chỉ đạo thực hiện; đến nay, đã
hoàn thành rà soát tích hợp nội dung quy hoạch các ngành, sản phẩm vào quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, các vùng, các địa phương.
Cùng với đó, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ,
nhất là công nghệ cao tạo 3 trục sản phẩm chất lượng, an toàn thực phẩm, đáp
ứng tiêu chuẩn quốc tế. Nhờ vậy, cả nước hình thành nhiều mô hình phát triển
sản xuất theo chuỗi giá trị, các vùng sản xuất hàng hóa tập trung, quy mô lớn[2],
trong đó có nhiều diện tích được chứng
nhận đạt tiêu chuẩn VietGap và tương đương.
Đồng thời, Bộ đã phối hợp với Bộ Công
Thương và các Hiệp hội ngành hàng, các Bộ, ngành liên quan, các địa phương đẩy
mạnh hoạt động xúc tiến thương mại, quảng bá thương hiệu các sản phẩm nông
nghiệp (Gạo Việt Nam; Cá tra, Tôm, Cá Ngừ, Cà phê Việt Nam); tổ chức nhiều hội
chợ, triển lãm để quảng bá thương hiệu các đặc sản vùng, miền, địa phương trong
Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” - OCOP[3]. Triển khai các biện pháp tổ
chức lại hệ thống thương mại nông sản (nhất là phát triển thương mại điện tử,
các sàn giao dịch, bán hàng trực tuyến trên các nền tảng công nghệ số...), phát
triển các kênh bán buôn, bán lẻ, hỗ trợ xây dựng thương hiệu và truy suất nguồn
gốc, chỉ dẫn địa lý (như lúa gạo có 10 sản phẩm có chỉ dẫn địa lý, bảo hộ nhãn
hiệu tập thể, chứng nhận nhãn hiệu). Phát triển thị trường xuất khẩu, nhất là
với các nông sản chủ lực gạo, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, trái cây, thủy sản, đồ
gỗ…
Tuy nhiên, một số cơ chế, chính sách
cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chậm được sửa đổi, bổ sung hoặc thiếu nguồn lực để thực hiện; vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát
triển nông nghiệp, nông thôn còn thấp hơn nhiều so với nhu cầu.
2. Thời
gian tới, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và PTNT đang khẩn
trương xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược phát triển nông
nghiệp và nông thôn bền vững giai đoạn 2021 - 2030 và 4 quy hoạch ngành cấp
quốc gia lĩnh vực nông nghiệp thời kỳ 2021 - 2030[4]; tổ chức thực
hiện có hiệu quả các Chiến lược phát triển các tiểu ngành, lĩnh vực giai đoạn
2021 - 2030 và Kế hoạch cơ cấu lại ngành nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025 đã
được phê duyệt; trong đó tập trung các nội dung sau:
(1) Tiếp
tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tạo động lực mới cho phát triển nông nghiệp
hàng hóa và xây dựng nông thôn mới, nhất là cơ chế, chính sách về đất đai, tín
dụng, đầu tư, bảo hiểm, hợp tác công tư... Đồng thời, đổi mới cơ cấu và cơ chế
đầu tư công phù hợp và phục vụ trực tiếp thực hiện Kế hoạch cơ cấu lại ngành
nông nghiệp giai đoạn 2021 - 2025. Kiến nghị Quốc hội sửa đổi Luật Đất đai năm
2013 và Chính phủ sửa đổi, bổ sung văn bản dưới luật để tạo động lực mới cho
phát triển “nông nghiệp sinh thái, nông thôn hiện đại, nông dân thông minh”,
theo hướng nâng cao hiệu quả sử dụng đất; thúc đẩy tích tụ, tập trung đất đai
trên cơ sở hình thành thị trường quyền sử dụng đất nông nghiệp để mở rộng sản
xuất hàng hóa có khả năng cạnh tranh cao đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
(2) Đầu
tư, phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa tập trung, quy mô lớn theo hình
thức hợp tác, liên kết chuỗi giá trị, gắn với công nghiệp chế biến, ứng dụng
khoa học công nghệ, thực hiện chuyển đổi số và kết nối xuyên suốt với hệ thống
tiêu thụ trong nước và quốc tế. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và phát triển
thương hiệu nông sản Việt Nam có chất lượng cao, an toàn thực phẩm, thân thiện
với môi trường để mở cửa thị trường các sản phẩm chủ lực, có tiềm năng.
Trên đây là trả lời của Bộ Nông
nghiệp và PTNT đối với kiến nghị cử tri TP. Hải Phòng; trân trọng cảm ơn cử tri
TP. Hải Phòng đã quan tâm để sự phát triển của ngành nông nghiệp, nông thôn;
xin gửi tới Đoàn Đại biểu Quốc hội TP.Hải Phòng để trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng;
- Ban Dân nguyện;
- Văn phòng Chính phủ (Vụ QHĐP);
- VP Bộ (Phòng Tổng hợp)
- Lưu: VT, KH. (10b).
|
BỘ
TRƯỞNG
Lê Minh Hoan
|