BỘ
TÀI CHÍNH
TỔNG CỤC THUẾ
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 1637/TCT-CS
V/v chính sách thuế
|
Hà
Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2017
|
Kính
gửi: Cục Thuế thành phố Hà Nội.
Tổng cục Thuế nhận được công văn số
13427/CT-TTHT ngày 31/3/2017 của Cục Thuế thành phố Hà Nội về chính sách thuế đối
với mua hàng trả chậm. Về vấn đề này, Tổng cục Thuế có ý
kiến như sau:
1. Khấu trừ thuế GTGT trong trường
hợp mua hàng hóa trả chậm giai đoạn từ 1/1/2014 đến
trước ngày 15/11/2014:
Tại Khoản 6 Điều 1 Luật
thuế GTGT số 31/2013/QH13 quy định:
“2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào được quy định như sau:
...
b) Có chứng từ thanh toán không dùng
tiền mặt đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hóa, dịch vụ mua từng lần
có giá trị dưới hai mươi triệu đồng;
...”
Tại Khoản 2 Điều 9 Nghị
định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18 tháng 12 năm 2013 quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng (có hiệu lực từ ngày 1/1/2014)
quy định:
“2. Điều kiện khấu trừ thuế giá trị
gia tăng đầu vào:
...
Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả
chậm, trả góp có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào
hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ, hóa đơn giá trị gia tăng và chứng từ không dùng
tiền mặt của hàng hóa, dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế
giá trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán không dùng tiền
mặt do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được
kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đến
thời điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm đối với
trường hợp thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31 tháng 12, nếu
không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì cơ sở kinh doanh không được
khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và phải kê khai, điều chỉnh lại số thuế
giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ.”
2. Khấu trừ thuế GTGT trong trường
hợp mua hàng hóa trả chậm từ ngày 15/11/2014:
Tại Khoản 2 Điều 2 Nghị
định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 của Chính phủ (có hiệu lực từ ngày 15/11/2014)
về việc sửa đổi, bổ sung một số điều tại các Nghị định; Tại Khoản
8 Điều 3 Nghị định số 12/2015/NĐ-CP ngày 12/2/2015 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các Luật về thuế và sửa
đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định về thuế quy định về việc thanh toán
hàng hóa trả chậm như sau:
“Đối với hàng hóa, dịch vụ mua trả
chậm, trả góp có giá trị từ 20 triệu đồng trở lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào
hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ, hóa đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán
không dùng tiền mặt của hàng hóa dịch vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu
trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán không
dùng tiền mặt do chưa đến thời điểm thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh
doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.”
Để cắt giảm thủ tục hành chính giúp
người nộp thuế không còn phải điều chỉnh nhiều lần việc tăng, giảm số thuế GTGT
được khấu trừ, tại Nghị định số 91/2014/NĐ-CP đã không còn quy định “Đến
thời điểm thanh toán theo hợp đồng hoặc đến ngày 31 tháng 12 hàng năm đối với
trường hợp thời điểm thanh toán theo hợp đồng sớm hơn ngày 31 tháng 12, nếu
không có chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt thì cơ sở kinh doanh không được
khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào và phải kê khai, điều chỉnh lại số thuế
giá trị gia tăng đầu vào đã khấu trừ” (đã quy định tại Khoản
2 Điều 9 Nghị định số 209/2013/NĐ-CP) và tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP
ngày 12/2/2015 tiếp tục giữ nguyên nội dung thay thế nêu trên.
Tại Điều 10, Thông tư
151/2014/TT-BTC ngày 10/10/2014, sửa đổi, bổ sung điểm c Khoản
3 Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC; Tại điểm c khoản 10 Điều
1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015 của Bộ Tài chính quy định về việc
thanh toán hàng hóa trả chậm như sau:
“c) Đối với hàng hóa, dịch vụ mua
trả chậm, trả góp có giá trị hàng hóa, dịch vụ mua từ hai mươi triệu đồng trở
lên, cơ sở kinh doanh căn cứ vào hợp đồng mua hàng hóa, dịch vụ bằng văn bản,
hóa đơn giá trị gia tăng và chứng từ thanh toán qua ngân hàng của hàng hóa, dịch
vụ mua trả chậm, trả góp để kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm
thanh toán theo hợp đồng thì cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế
giá trị gia tăng đầu vào.
Trường hợp khi thanh toán, cơ sở
kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh phải
kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ đối với phần giá trị
hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng vào kỳ tính thuế
phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt (kể cả trong trường hợp cơ quan thuế và
các cơ quan chức năng đã có quyết định thanh tra, kiểm tra kỳ tính thuế có phát
sinh thuế GTGT đã kê khai, khấu trừ).”
Căn cứ quy định nêu trên, từ ngày 15/11/2014
khi Nghị định số 91/2014/NĐ-CP ngày 01/10/2014 có hiệu lực thi hành thì trường
hợp chưa có chứng từ thanh toán qua ngân hàng do chưa đến thời điểm thanh toán
theo hợp đồng cơ sở kinh doanh vẫn được kê khai, khấu trừ thuế giá trị gia tăng
đầu vào.
Đến thời hạn thanh toán ghi trong hợp
đồng cơ sở kinh doanh vẫn chưa thanh toán cho khách hàng nên chưa có chứng từ
thanh toán qua ngân hàng thì cơ sở kinh doanh chưa phải điều chỉnh giảm số thuế
GTGT đã kê khai khấu trừ.
Khi thanh toán thực tế, nếu cơ sở
kinh doanh không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng (thanh toán bằng tiền mặt
hoặc các hình thức không được xác định là thanh toán quan ngân hàng) thì cơ sở
kinh doanh phải kê khai, điều chỉnh giảm số thuế GTGT đã được khấu trừ tương ứng
với phần giá trị hàng hóa, dịch vụ không có chứng từ thanh toán qua ngân hàng
vào kỳ tính thuế phát sinh việc thanh toán bằng tiền mặt.
Tổng cục Thuế có ý kiến Cục Thuế
thành phố Hà Nội được biết./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Phó TCT: Cao Anh Tuấn (để b/c);
- Vụ PC-BTC;
- Vụ PC-TCT;
- Website TCT;
- Lưu: VT, CS(4b).
|
TL. TỔNG CỤC TRƯỞNG
VỤ TRƯỞNG VỤ CHÍNH SÁCH
Lưu Đức Huy
|