BỘ
NGOẠI GIAO
-------
|
CỘNG
HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số:
02/2018/TB-LPQT
|
Hà
Nội, ngày 08 tháng 02 năm 2018
|
THÔNG BÁO
VỀ VIỆC ĐIỀU ƯỚC QUỐC TẾ CÓ HIỆU LỰC
Thực hiện quy định tại Điều 56 của Luật
Điều ước quốc tế năm 2016, Bộ Ngoại giao trân trọng thông báo:
Hiệp định giữa Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ về tránh đánh thuế hai lần và ngăn
ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh
vào thu nhập và Nghị định thư kèm theo, ký tại
An-ka-ta ngày 08 tháng 7 năm 2014, có hiệu lực từ ngày 09 tháng 6 năm 2017.
Bộ Ngoại giao trân trọng gửi bản sao
Hiệp định theo quy định tại Điều 59 của Luật nêu trên./.
|
TL.
BỘ TRƯỞNG
KT. VỤ TRƯỞNG
VỤ LUẬT PHÁP VÀ ĐIỀU ƯỚC QUỐC
TẾ
PHÓ VỤ TRƯỞNG
Lê Hải Triều
|
HIỆP ĐỊNH
GIỮA CHÍNH PHỦ NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM VÀ CHÍNH PHỦ NƯỚC
CỘNG HÒA THỔ NHĨ KỲ VỀ TRÁNH ĐÁNH THUẾ HAI LẦN VÀ NGĂN NGỪA VIỆC TRỐN LẬU THUẾ
ĐỐI VỚI CÁC LOẠI THUẾ ĐÁNH VÀO THU NHẬP
Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và
Chính phủ nước Cộng hòa
Thổ Nhĩ Kỳ,
Mong muốn ký kết một Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào thu nhập.
Đã thỏa thuận như
sau;
ĐIỀU 1
Đối tượng áp dụng
Hiệp định này áp
dụng đối với các đối tượng là những đối tượng cư trú của một hoặc của cả hai Nước ký kết.
ĐIỀU 2
Các loại thuế bao gồm trong Hiệp định
1. Hiệp định này áp dụng đối với các loại thuế do một Nước ký kết hoặc
chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó đánh vào thu nhập, bất
kể hình thức áp dụng của các loại thuế
đó như thế nào.
2. Tất cả các loại
thuế thu trên tổng thu nhập hoặc những phần
của thu nhập, bao gồm các khoản thuế đối với thu nhập từ chuyển nhượng động sản hoặc bất động sản, các loại thuế đánh trên tổng số tiền lương hoặc tiền công do doanh
nghiệp chi trả sẽ được coi là các loại thuế đánh vào thu nhập.
3. Các loại thuế hiện hành được áp dụng trong Hiệp định này là:
(a) tại Việt Nam:
(i) thuế thu nhập cá nhân; và
(ii) thuế thu nhập doanh nghiệp;
(sau đây gọi là “thuế Việt Nam”);
(b) tại Thổ Nhĩ Kỳ:
(i) thuế thu nhập;
và
(ii) thuế công ty;
(sau đây gọi là “thuế
Thổ Nhĩ Kỳ”).
4. Hiệp định này cũng sẽ được áp dụng đối với bất kỳ loại thuế nào có tính chất tương tự hoặc về cơ bản giống như các loại thuế trên được ban hành sau ngày ký Hiệp định này để
bổ sung, hoặc thay thế các loại thuế hiện
hành. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết
sẽ thông báo cho nhau những thay đổi quan trọng trong các
luật thuế của từng Nước.
ĐIỀU 3
Các định nghĩa chung
1. Vì mục đích của
Hiệp định này, trừ trường hợp ngữ cảnh
đòi hỏi có sự giải
thích khác:
(a) thuật ngữ “Việt Nam” khi dùng theo nghĩa địa lý, có
nghĩa là lãnh thổ đất liền, đảo, nội thủy, lãnh hải và vùng trời phía trên đó cũng như vùng biển ngoài lãnh hải bao gồm đáy biển và lòng đất dưới đáy biển mà trên đó Việt Nam có quyền tài phán hoặc quyền chủ quyền hoặc chủ quyền trong việc thăm dò, khai thác hoặc bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, phù hợp với pháp luật quốc
gia và luật pháp quốc tế;
(b) thuật ngữ
“Thổ Nhĩ Kỳ” có nghĩa là
lãnh thổ đất liền, nội thủy, lãnh hải
và vùng trời phía trên đó, cũng như
vùng biển ngoài lãnh hải mà trên đó Thổ Nhĩ Kỳ có chủ quyền hoặc quyền tài phán
trong việc thăm dò, khai thác và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên
cho dù là tài nguyên thiên nhiên sinh vật hay phi sinh vật phù hợp với luật pháp quốc tế;
(c) thuật ngữ “Nước ký kết” và “Nước ký kết kia” có
nghĩa là Việt Nam hoặc Thổ Nhĩ Kỳ tùy
ngữ cảnh đòi hỏi;
(d) thuật ngữ “đối
tượng” bao gồm một cá nhân, một công ty và bất kỳ tổ chức
của nhiều đối tượng nào khác;
(e) thuật ngữ
“công ty” để chỉ bất kỳ tổ chức công
ty hoặc bất kỳ một thực thể nào được
coi là tổ chức công ty dưới giác độ
thuế;
(f) thuật ngữ
“doanh nghiệp của một Nước ký kết” và “doanh nghiệp
của Nước ký kết kia” theo thứ tự có nghĩa
là một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng cư trú của một Nước ký kết là một doanh nghiệp được điều hành bởi một đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia;
(g) thuật ngữ “đối
tượng mang quốc tịch” có nghĩa là:
(i) tất cả các cá nhân mang quốc tịch của một Nước ký kết;
(ii) tất cả các pháp nhân, công ty
hợp danh và hiệp hội có tư cách theo các luật
có hiệu lực tại một Nước ký kết;
(h) thuật ngữ “vận
tải quốc tế” có nghĩa là bất kỳ sự vận
chuyển nào bằng tàu thủy hoặc máy bay do doanh
nghiệp của một Nước ký kết điều hành, trừ trường hợp khi chiếc tàu thủy hoặc máy bay
đó chỉ hoạt động giữa những địa điểm trong Nước ký kết
kia; và
(i) thuật ngữ “nhà
chức trách có thẩm quyền” có nghĩa là:
(i) trong trường
hợp của Việt Nam, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng; và
(ii) trong trường hợp của Thổ Nhĩ Kỳ, là Bộ trưởng Bộ Tài chính hoặc người đại diện được ủy quyền của Bộ trưởng.
2. Khi một Nước ký kết áp dụng Hiệp định
này vào bất kỳ thời điểm nào, bất kỳ
thuật ngữ nào chưa được định nghĩa tại Hiệp
định này sẽ có nghĩa theo như định nghĩa
tại luật của Nước đó liên quan đến các loại thuế mà Hiệp định này áp dụng vào thời điểm đó, bất
kỳ nghĩa nào theo luật thuế được áp dụng
của Nước đó sẽ có giá trị cao hơn nghĩa của thuật ngữ đó
theo các luật khác của Nước đó, trừ trường hợp ngữ cảnh đòi hỏi có sự giải thích khác.
ĐIỀU 4
Đối tượng cư trú
1. Vì mục đích của Hiệp định này, thuật ngữ “đối tượng cư trú của một Nước ký kết”
có nghĩa là bất kỳ đối tượng nào mà theo các luật của Nước đó là đối tượng chịu thuế căn cứ
vào nhà ở, nơi cư trú, trụ sở điều hành, trụ sở đăng ký hoặc
bất kỳ tiêu thức nào khác có tính chất
tương tự, và cũng bao gồm cả Nước đó và bất kỳ chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó. Tuy nhiên, thuật ngữ này
không bao gồm bất kỳ đối tượng nào phải chịu thuế tại Nước
đó chỉ đối với
thu nhập từ các nguồn tại Nước đó.
2. Trường hợp theo các quy định tại khoản 1 khi một cá
nhân là đối tượng cư trú của cả hai
Nước ký kết, thì thân phận cư trú của cá nhân đó sẽ được xác định như sau:
(a) cá nhân đó sẽ
được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà tại đó cá nhân đó có nhà ở
thường trú; nếu cá nhân đó có nhà ở thường trú ở cả hai Nước, cá nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước mà cá nhân đó có các quan hệ cá nhân và kinh tế chặt chẽ hơn (trung tâm của các quyền lợi chủ yếu);
(b) nếu không thể xác định được Nước
mà ở đó cá nhân đó có trung tâm của các quyền lợi chủ yếu, hoặc nếu cá nhân đó không có nhà ở thường trú ở cả hai Nước thì cá
nhân đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước ký kết mà cá nhân đó thường sống;
(c) nếu cá nhân đó thường xuyên sống ở cả hai Nước hoặc không
thường xuyên sống ở Nước nào, cá nhân
đó sẽ được coi là đối tượng cư trú chỉ
của Nước mà cá nhân đó mang quốc tịch;
(d) nếu cá nhân đó là đối tượng mang
quốc tịch của cả hai Nước hoặc không mang quốc tịch của cả hai Nước này thì các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ giải
quyết vấn đề đó bằng thỏa thuận chung.
3. Trường hợp theo các quy định tại
khoản 1, khi một đối tượng không phải là cá nhân, là đối
tượng cư trú của cả hai Nước ký kết, khi đó đối tượng này sẽ
được coi là đối tượng cư trú chỉ của Nước có trụ sở đăng ký của đối tượng đó.
ĐIỀU 5
Cơ sở thường trú
1. Vì mục đích của Hiệp định này, thuật
ngữ “cơ sở thường trú” có nghĩa là một cơ sở kinh doanh cố
định mà qua đó doanh nghiệp thực hiện toàn bộ
hoặc một phần hoạt động kinh doanh của mình.
2. Thuật ngữ “cơ
sở thường trú” chủ yếu bao gồm:
(a) trụ sở điều hành;
(b) chi nhánh;
(c) văn phòng;
(d) nhà máy;
(e) xưởng;
(f) mỏ, giếng dầu hoặc khí, mỏ đá hoặc
bất kỳ địa điểm khai thác tài nguyên thiên nhiên nào khác; và
(g) kho hàng
liên quan đến một đối tượng cung cấp các phương tiện lưu kho cho những đối tượng
khác.
3. Thuật ngữ “cơ
sở thường trú” cũng bao gồm:
(a) một địa điểm xây dựng, công trình
xây dựng, lắp ráp hoặc lắp đặt hoặc các hoạt động giám sát có liên quan, nhưng chỉ khi địa điểm, công trình hoặc các hoạt động này kéo dài trong một giai
đoạn hơn sáu tháng;
(b) việc cung cấp
các dịch vụ, bao gồm cả dịch vụ tư vấn, do một doanh nghiệp
thực hiện thông qua những người làm công hoặc những đối tượng khác được doanh nghiệp
giao thực hiện các hoạt động trên, nhưng chỉ khi các hoạt động mang tính chất
nêu trên kéo dài (trong cùng một dự án hoặc một dự án có liên quan) tại một Nước trong một giai đoạn hoặc
nhiều giai đoạn gộp lại hơn 6 tháng trong bất kỳ giai đoạn
12 tháng.
4. Mặc dù có các
quy định trên của Điều này, thuật ngữ “cơ sở thường trú” sẽ
được coi là không bao gồm:
(a) việc sử dụng các phương tiện chỉ cho mục đích
lưu kho, trưng bày hoặc giao hàng hóa của doanh nghiệp;
(b) việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp chỉ
với mục đích lưu kho, trưng bày hoặc giao hàng;
(c) việc duy trì kho hàng hóa của doanh nghiệp với mục đích chỉ để cho doanh nghiệp khác gia công;
(d) việc duy trì
một cơ sở kinh doanh cố định chỉ nhằm mục đích mua hàng
hóa hoặc để thu thập thông tin cho doanh nghiệp;
(e) việc duy trì một cơ sở kinh doanh
cố định chỉ với
mục đích tiến hành bất kỳ hoạt động nào khác mang tính chất phụ trợ hoặc chuẩn bị cho doanh nghiệp;
(f) việc duy trì
một cơ sở kinh doanh cố định chỉ với mục đích kết hợp bất kỳ hoạt động nào nêu từ điểm (a) tới điểm (e), với điều kiện toàn bộ hoạt động của cơ sở kinh doanh cố định từ sự kết hợp trên mang
tính chất phụ trợ hoặc chuẩn bị.
5. Mặc dù có các quy định tại các khoản 1 và 2, trường hợp một đối tượng - trừ đại lý có tư cách độc lập được điều chỉnh bởi khoản 6 - hoạt động tại một Nước ký kết thay mặt cho một doanh
nghiệp của Nước ký kết kia, doanh
nghiệp đó sẽ được coi là có cơ sở thường trú tại Nước ký kết thứ nhất đối với các hoạt động mà đối
tượng này thực hiện cho doanh nghiệp, nếu đối tượng đó có và thường xuyên thực hiện tại Nước thứ nhất thẩm quyền ký kết các hợp đồng đứng tên doanh
nghiệp, trừ khi các hoạt động của đối tượng này chỉ giới
hạn trong phạm vi các hoạt động nêu tại khoản 4 mà các hoạt động đó nếu được thực hiện thông qua một cơ sở kinh doanh cố định,
sẽ không làm cho cơ sở kinh doanh cố định
này trở thành một cơ sở thường trú theo các quy định tại
khoản đó.
6. Một doanh nghiệp sẽ không được coi là có một cơ sở
thường trú tại một Nước ký kết chỉ vì doanh nghiệp đó chỉ thực hiện hoạt động kinh doanh tại Nước đó thông qua một đại lý môi giới,
một đại lý hoa hồng hoặc
bất kỳ một đại lý nào khác có tư cách
độc lập, trong trường hợp các đối tượng này hoạt động
trong khuôn khổ kinh doanh thông thường
của họ. Tuy nhiên, khi các hoạt động của đại lý đó dành toàn bộ thay mặt cho
doanh nghiệp đó, đại lý đó sẽ không được coi là đại lý có tư cách độc lập theo nghĩa của khoản
này.
7. Việc một công ty là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết kiểm soát hoặc chịu sự kiểm soát bởi một công ty là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia, hoặc tiến hành
hoạt động kinh doanh tại Nước kia (có thể thông qua một cơ sở thường trú hoặc dưới hình thức
khác), sẽ không làm cho bất kỳ công ty nào trở thành cơ sở thường trú của
công ty kia.
ĐIỀU 6
Thu nhập từ bất động sản
1. Thu nhập mà một
đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ bất động
sản (kể cả thu
nhập từ nông nghiệp hoặc lâm nghiệp) có tại Nước ký kết
kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “bất động sản” sẽ có nghĩa theo
như luật của Nước ký kết nơi có bất động sản đó. Thuật ngữ này trong mọi
trường hợp sẽ bao gồm cả những phần tài sản phụ kèm theo bất động
sản, đàn gia súc và thiết bị sử dụng trong nông nghiệp (bao gồm cả sự gây giống và nuôi dưỡng cá) và lâm nghiệp, các quyền lợi được áp dụng theo như các quy định tại luật chung về điền sản, quyền sử dụng
bất động sản và các
quyền được hưởng các khoản thanh toán cố định hoặc không cố định
trả cho việc khai thác hoặc quyền khai thác các mỏ, nguồn khoáng
sản và các tài nguyên thiên nhiên khác; các tàu thủy, thuyền và máy bay
sẽ không được coi là bất động sản.
3. Các quy định tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng đối với
thu nhập phát sinh từ việc trực tiếp sử dụng, cho thuê hoặc sử dụng dưới bất kỳ hình
thức nào khác của bất
động sản.
4. Các quy định tại các khoản 1 và 3
cũng sẽ áp dụng đối với thu nhập từ bất động sản của một doanh nghiệp và đối với thu nhập từ bất động sản được sử dụng để thực hiện các dịch vụ cá nhân độc lập.
ĐIỀU 7
Lợi nhuận kinh doanh
1. Lợi nhuận của một doanh nghiệp của
một Nước ký kết sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó trừ trường hợp doanh nghiệp
có tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia
thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia. Nếu doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh theo
cách trên, thì các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp có thể
bị đánh thuế tại Nước kia nhưng chỉ trên phần
lợi nhuận phân bổ cho cơ sở thường
trú đó.
2. Thể theo các quy định tại khoản 3, khi một
doanh nghiệp của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh
doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú đặt
tại Nước ký kết kia, thì tại mỗi Nước ký kết sẽ có những
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú nói trên mà cơ sở thường trú đó có thể
thu được nếu nó là một doanh nghiệp riêng và
tách biệt cùng tham gia vào các hoạt động như nhau hoặc tương tự trong cùng các
điều kiện như nhau hoặc tương tự và có quan hệ hoàn toàn độc lập với doanh nghiệp mà cơ sở đó được coi là cơ sở thường trú.
3. Khi xác định lợi
nhuận của một cơ sở thường trú, cơ sở thường
trú này sẽ được phép khấu trừ các khoản chi phí bao gồm cả
chi phí điều hành và chi phí quản lý chung trong phạm vi
các chi phí này phát sinh phục vụ cho mục đích kinh doanh
của cơ sở thường trú này, bất kể chi phí đó phát sinh tại Nước nơi cơ sở thường trú đó đóng hoặc ở bất kỳ nơi nào khác. Tuy nhiên, sẽ không cho phép tính vào các khoản chi phí được
trừ bất kỳ khoản tiền nào, nếu có, do
cơ sở thường trú trả cho (trừ khi là khoản thanh toán các chi phí thực tế) trụ
sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào khác của doanh nghiệp dưới
hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hoặc bất kỳ khoản thanh toán tương tự
nào khác để được phép sử dụng sáng chế
hoặc các quyền khác, hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả cho việc thực
hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc quản
lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho cơ sở thường
trú vay, trừ trường hợp tiền lãi của tổ chức ngân hàng.
Tương tự như vậy, khí xác định lợi nhuận của cơ sở thường trú sẽ không tính đến
các khoản tiền (trừ các khoản tiền thanh toán các chi phí thực tế) do cơ sở thường
trú thu từ trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng khác của
doanh nghiệp, dưới hình thức tiền bản quyền, các khoản lệ phí hoặc các khoản thanh toán tương tự để cho phép
sử dụng sáng chế hoặc các quyền khác,
hoặc dưới hình thức tiền hoa hồng trả
cho việc thực hiện các dịch vụ riêng biệt hoặc trả cho công việc
quản lý, hoặc dưới hình thức lãi tính trên tiền cho trụ sở chính của doanh nghiệp hoặc bất kỳ văn phòng nào của doanh nghiệp vay, trừ trường hợp lãi từ tiền
cho vay của tổ chức
ngân hàng.
4. Không một khoản lợi nhuận nào sẽ được phân
bổ cho một cơ sở thường trú nếu cơ sở thường trú đó chỉ đơn thuần
mua hàng hóa cho doanh nghiệp.
5. Trường hợp tại
một Nước ký kết vẫn thường xác định các
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở
thường trú trên cơ sở phân chia tổng các khoản lợi nhuận của doanh nghiệp thành những phần khác nhau, không có nội dung nào tại khoản 2 ngăn cản Nước ký kết đó xác định lợi nhuận chịu thuế theo cách phân
chia theo thông lệ trên; tuy nhiên phương pháp phân chia
được áp dụng như vậy phải đưa ra kết quả phù hợp với những
nguyên tắc nêu tại Điều này.
6. Theo nội dung các khoản trên, các
khoản lợi nhuận được phân bổ cho cơ sở thường trú sẽ được
xác định theo cùng một phương pháp giữa các năm trừ khi có đủ lý do chính đáng để xác định theo phương pháp khác.
7. Khi lợi nhuận
bao gồm các khoản thu nhập được đề cập riêng tại các Điều khác của Hiệp định này, thì các quy định của các Điều đó sẽ không bị
ảnh hưởng bởi
các quy định tại Điều này.
ĐIỀU 8
Vận tải biển và vận tải hàng không
1. Lợi nhuận do một doanh nghiệp của
một Nước ký kết thu được từ hoạt động
của tàu thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ chỉ chịu
thuế tại Nước ký kết đó.
2. Theo quy định tại Điều này, lợi
nhuận do một doanh nghiệp của một Nước ký kết thu được từ hoạt động của tàu
thủy hoặc máy bay trong vận tải quốc tế sẽ bao gồm đặc biệt là các khoản lợi nhuận thu được từ việc
sử dụng hoặc cho thuê công-ten-nơ, khi
những khoản lợi nhuận như vậy có tính chất phụ kèm cho các khoản lợi nhuận mà các
quy định tại khoản 1 áp dụng.
3. Các quy định
tại khoản 1 cũng sẽ áp dụng cho các khoản lợi nhuận từ việc
tham gia vào một tổ hợp, một liên doanh hoặc một hãng hoạt động quốc tế.
ĐIỀU 9
Các doanh nghiệp liên kết
1. Khi
(a) một doanh nghiệp của một Nước ký
kết tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành, kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia, hoặc
(b) các đối tượng
cùng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào việc điều hành,
kiểm soát hoặc góp vốn vào một doanh nghiệp của một Nước
ký kết và vào một doanh nghiệp của Nước ký kết kia,
và trong hai trường
hợp, trong các mối quan hệ thương mại hoặc quan hệ tài chính giữa hai doanh nghiệp trên có
những điều kiện được xác lập hoặc áp đặt khác với điều
kiện được đưa ra giữa các doanh nghiệp độc lập, lúc đó mọi khoản lợi nhuận
mà một doanh nghiệp có thể thu được nếu không có các điều kiện trên,
nhưng nay vì những điều kiện này mà doanh nghiệp đó không
thu được, sẽ vẫn được tính vào các
khoản lợi nhuận của doanh nghiệp đó và bị đánh thuế tương ứng.
2. Khi một Nước ký kết tính vào các khoản lợi nhuận của một doanh nghiệp tại Nước đó - và đánh thuế tương ứng - các khoản lợi nhuận mà một
doanh nghiệp tại Nước ký kết kia đã bị đánh thuế ở Nước kia và những khoản lợi nhuận được tính vào như vậy bởi Nước ký kết
thứ nhất là những khoản lợi nhuận lẽ
ra thuộc về doanh nghiệp tại Nước thứ nhất nếu như những điều kiện được đặt ra giữa hai doanh nghiệp trên là những điều kiện được xác lập giữa các doanh nghiệp độc lập, khi đó Nước kia sẽ điều chỉnh các khoản thuế tại Nước
mình đối với các khoản lợi nhuận trên
cho phù hợp. Trong khi xác định sự điều
chỉnh trên sẽ xem xét đến các quy định
khác của Hiệp định này và khi cần thiết các nhà chức trách
có thẩm quyền của hai Nước ký kết sẽ
tham khảo ý kiến của nhau.
ĐIỀU 10
Tiền lãi cổ phần
1. Tiền lãi cổ phần
do một công ty là đối tượng cư trú của một Nước ký kết trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Tuy nhiên, những khoản tiền lãi cổ
phần đó cũng có thể bị đánh thuế tại
Nước ký kết nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú và theo
các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng tiền lãi cổ phần thì mức thuế
khi đó được tính sẽ không vượt quá:
(a) 5 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng
là một công ty (không phải là tổ chức hùn vốn) trực tiếp hoặc gián tiếp nắm
giữ ít nhất 50 phần trăm số vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần hoặc đã đầu tư
trên 10 triệu đô-la Mỹ, hoặc tương đương bằng tiền Thổ Nhĩ Kỳ hoặc Việt Nam, trong vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
(b) 10 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần nếu đối tượng thực hưởng là một
công ty trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ ít nhất 25 phần trăm nhưng ít hơn 50 phần trăm số vốn của công ty trả tiền lãi cổ phần;
(c) 15 phần trăm tổng số tiền lãi cổ phần trong
tất cả các trường hợp khác.
Khoản này sẽ không ảnh
hưởng tới việc đánh thuế công ty đối với lợi nhuận dùng để chia lãi cổ phần.
3. Thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là thu nhập từ cổ phần, cổ phần “jouissance” hoặc các quyền lợi “jouissance”, cổ
phần khai thác mỏ, cổ phần sáng lập hoặc các quyền lợi
khác không phải là các khoản cho vay, được hưởng lợi tức, cũng như thu nhập từ
các quyền lợi khác trong công ty cùng chịu sự điều chỉnh của chính sách thuế đối với thu nhập từ cổ phần theo các luật của Nước
nơi công ty chia lãi cổ phần là đối tượng cư trú.
4. Các quy định tại các khoản 1 và 2
sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, tiến
hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết kia, nơi công ty trả tiền lãi cổ phần là đối tượng cư trú, thông qua một cơ sở thường trú
nằm tại Nước đó, hoặc tiến hành tại Nước kia các hoạt động
dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định nằm tại Nước kia, và quyền nắm giữ các cổ phần nhờ đó được
hưởng tiền lãi cổ phần, có sự liên hệ thực tế đến cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định nói trên. Trong trường hợp như vậy, các quy định
tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường
hợp, sẽ được áp dụng.
5. Lợi nhuận của một công ty của một Nước ký kết tiến hành hoạt động kinh doanh
tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở
thường trú nằm tại Nước kia, sau khi đã chịu thuế theo Điều 7, có thể bị đánh thuế trên khoản
lợi nhuận còn lại tại Nước ký kết nơi có cơ sở
thường trú. Mức thuế khi đó được tính sẽ không vượt quá 5%.
6. Thể theo các
quy định tại khoản 5, khi một công ty là đối tượng cư trú
của một Nước ký kết nhận được lợi nhuận hoặc thu nhập phát
sinh từ Nước ký kết kia thì Nước kia
có thể không đánh thuế đối với những
khoản tiền lãi cổ phần do công ty này trả, trừ
trường hợp các khoản tiền lãi cổ phần này được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia hoặc việc nắm giữ mà
theo đó các khoản tiền lãi cổ phần được trả có sự liên hệ thực tế với
một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định tại Nước kia, đồng thời Nước kia cũng không buộc các
khoản lợi nhuận không chia của công ty trên phải chịu thuế đối với những khoản lợi nhuận không chia của công ty, cho dù các khoản tiền lãi cổ phần được chia hoặc
các khoản lợi nhuận không chia bao gồm toàn bộ hoặc một phần
các khoản lợi nhuận hoặc thu nhập
phát sinh tại Nước kia.
ĐIỀU 11
Lãi từ tiền cho vay
1. Lãi từ tiền cho vay phát sinh tại
một Nước ký kết và được trả cho một đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Tuy nhiên,
khoản lãi từ tiền cho vay này cũng có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát
sinh lãi và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng lãi từ tiền cho vay thì khi đó mức thuế được tính sẽ
không vượt quá 10 phần trăm tổng số
khoản lãi từ tiền cho vay.
3. Mặc dù có những
quy định tại khoản 2, lãi từ tiền cho vay phát sinh tại:
(a) Việt Nam và trả cho Chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ
hoặc Ngân hàng Trung ương Thổ Nhĩ Kỳ sẽ được
miễn thuế Việt Nam;
(b) Thổ Nhĩ Kỳ
và trả cho Chính phủ Việt Nam hoặc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam sẽ được miễn thuế Thổ Nhĩ Kỳ.
4. Thuật ngữ “lãi từ tiền cho vay” được sử dụng trong Điều này có nghĩa là thu nhập từ các khoản cho vay dưới bất kỳ dạng nào, có
hoặc không được đảm bảo bằng thế chấp, và có hoặc không có quyền được hưởng lợi tức của người đi vay, và đặc biệt là khoản thu nhập
từ chứng khoán của Chính phủ và thu nhập từ trái phiếu hoặc trái
phiếu thông thường, kể cả các khoản tiền thưởng và giải thưởng kèm theo các khoản chứng khoán, trái phiếu hoặc trái phiếu thông thường đó.
5. Các quy định tại các khoản 1, 2 và
3 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản lãi từ tiền cho vay là đối tượng cư
trú của một Nước ký kết, tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia nơi phát sinh các khoản lãi
từ tiền cho vay, thông qua một cơ sở thường trú tại Nước
ký kết kia, hoặc thực hiện tại Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định tại Nước
kia và khoản nợ có các khoản tiền lãi được trả có
sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
Trong trường hợp này, các quy định tại
Điều 7 hoặc Điều 14 tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
6. Lãi từ tiền cho vay sẽ được coi là
phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả chính là Nhà nước đó, chính quyền cơ sở, chính quyền địa
phương hoặc một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên,
khi đối tượng trả lãi có ở một Nước ký kết một cơ sở thường
trú hoặc một cơ sở cố định liên quan đến các khoản nợ đã phát sinh các khoản lãi này, và khoản tiền lãi đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định
đó chịu thì dù đối tượng có là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết hay không, khoản tiền lãi này sẽ vẫn được coi là phát sinh tại Nước nơi có cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
7. Trường hợp, do mối quan hệ đặc biệt
giữa đối tượng trả lãi và đối tượng thực hưởng lãi hoặc giữa cả hai đối tượng trên và các đối tượng khác, khoản lãi từ liền cho vay được trả cho khoản nợ có liên quan, vượt quá khoản
tiền được thỏa thuận giữa đối tượng
trả lãi và đối tượng thực hưởng khi
không có mối quan hệ này, thì khi đó,
các quy định tại Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với các khoản
tiền thanh toán khi không có mối quan hệ đặc biệt trên.
Trong trường hợp này, phần thanh toán vượt sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng
Nước ký kết, có xem xét thích đáng đến các quy định khác của
Hiệp định này.
ĐIỀU
12
Tiền bản quyền
1. Tiền bản quyền phát sinh tại một
Nước ký kết và được trả cho đối tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia.
2. Tuy nhiên, các khoản tiền bản quyền đó cũng có thế bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi phát sinh tiền bản quyền, và theo các luật của Nước đó, nhưng nếu
đối tượng nhận là đối tượng thực hưởng
tiền bản quyền thì mức thuế khi đó
được tính sẽ không vượt quá 10 phần trăm tổng số tiền bản quyền.
3. Thuật ngữ “tiền
bản quyền” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán dưới bất kỳ
hình thức nào được trả cho việc sử dụng,
hoặc quyền sử dụng, bản quyền tác giả
của một tác phẩm văn học, nghệ thuật hoặc khoa học, kể cả phim điện ảnh, hoặc các loại phim hoặc băng
dùng cho phát thanh hoặc truyền hình, sáng chế, nhãn hiệu,
thiết kế hoặc mẫu, đồ án, công thức
hoặc quy trình bí mật,
hoặc trả cho việc sử dụng, hoặc quyền sử dụng, thiết bị
công nghiệp, thương mại, hoặc khoa học hoặc trả cho thông
tin liên quan đến các kinh nghiệm công nghiệp, thương mại
hoặc khoa học.
4. Các quy
định tại các khoản 1 và 2 sẽ không áp dụng nếu đối tượng thực hưởng các khoản tiền bản quyền, là đối tượng cư trú của một
Nước ký kết, tiến hành hoạt động kinh doanh tại Nước ký kết
kia nơi có khoản tiền bản quyền phát sinh, thông qua một cơ sở thường trú có tại Nước ký kết kia, hoặc tiến hành tại
Nước kia các hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một
cơ sở cố định có
tại Nước ký kết kia, và quyền hoặc tài sản có
các khoản tiền bản quyền được trả có
sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc với cơ sở cố
định đó. Trong trường hợp này, các quy định tại Điều 7 hoặc
Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
5. Tiền bản quyền
sẽ được coi là phát sinh tại một Nước ký kết khi người trả
chính là Nhà nước đó, chính quyền cơ
sở, hoặc chính quyền địa phương hoặc một đối tượng cư trú của Nước đó. Tuy nhiên, khi đối tượng trả tiền bản quyền có ở một Nước ký kết một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố
định liên quan đến quyền
hoặc tài sản phát sinh tiền bản quyền có liên hệ thực tế, và khoản tiền bản quyền đó do cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó chịu
thì dù đối tượng có
là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết hay không, khoản tiền bản quyền này sẽ vẫn được coi là phát sinh tại Nước nơi có
cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định đó.
6. Trường hợp do mối quan hệ đặc biệt giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng hoặc giữa
cả hai đối tượng
trên với các đối tượng khác, khoản tiền bản quyền được trả cho việc sử
dụng, quyền sử dụng hoặc thông tin vượt quá khoản tiền được thỏa thuận giữa đối tượng trả và đối tượng thực hưởng khi
không có mối quan hệ đặc biệt này, thì các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với
khoản tiền thanh toán khi không có mối
quan hệ đặc biệt trên. Trong trường
hợp này, phần thanh toán vượt
sẽ bị đánh thuế theo các luật của từng Nước ký kết, có xem xét thích đáng đến các quy định khác của Hiệp định này.
ĐIỀU 13
Thu nhập từ chuyển nhượng tài sản
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết nhận được từ chuyển nhượng bất động sản được nêu tại khoản 2
Điều 6 và có tại Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thu nhập từ chuyển
nhượng động sản là một phần của tài sản
kinh doanh của một cơ sở thường trú mà
một doanh nghiệp của Nước ký kết
có tại Nước ký kết kia hoặc động sản thuộc một cơ sở cố định của một đối tượng cư trú của một Nước ký kết có ở Nước ký kết kia để tiến hành hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập, kể cả
thu nhập từ việc chuyển nhượng cơ sở thường trú đó (chuyển nhượng riêng cơ sở thường trú đó hoặc cùng với toàn bộ doanh nghiệp) hoặc cơ sở cố định
đó, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
3. Thu nhập do một doanh nghiệp của một
Nước ký kết thu được từ việc chuyển
nhượng các tàu thủy hoặc máy bay hoạt động trong vận tải quốc tế, hoặc chuyển
nhượng động sản gắn liền
với hoạt động của tàu thủy hoặc máy bay đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
4. Thu nhập do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ việc chuyển nhượng cổ phần
hoặc các lợi ích tương ứng trong một công ty, mà tài sản của
công ty đó bao gồm toàn bộ hoặc chủ yếu là bất động sản nằm tại Nước ký kết kia, có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
5. Thu nhập từ việc chuyển nhượng bất kỳ tài sản nào khác với tài sản nêu tại các khoản 1, 2, 3 và 4, sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi đối tượng
chuyển nhượng là đối tượng cư trú.
6. Các quy định của khoản 5 sẽ không ảnh hưởng đến quyền của một trong hai Nước ký kết đánh thuế theo luật của mình đối với thu nhập thu được bởi một đối tượng cư trú của Nước ký kết
kia từ việc chuyển nhượng cổ phần do
một công ty là đối tượng cư trú của Nước thứ nhất phát
hành, nếu chủ sở hữu thực hưởng cổ phần nắm giữ trực tiếp
dưới 25 phần trăm vốn của công ty đó và nếu thời gian giữa việc có được và chuyển nhượng không quá một năm.
ĐIỀU 14
Dịch vụ cá nhân độc lập
1. Thu nhập do một đối tượng cư trú của
một Nước ký kết thu được từ các dịch
vụ ngành nghề hoặc các hoạt động khác có tính chất độc lập sẽ chỉ bị đánh
thuế tại Nước đó trừ các trường hợp sau
đây, khi đó những khoản thu nhập như vậy cũng có thể bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia:
(a) Nếu đối tượng đó thường xuyên có
tại Nước ký kết kia một cơ sở cố định
để thực hiện các hoạt động này; trong
trường hợp đó chỉ phần thu nhập phân
bổ cho cơ sở cố định
đó có thể bị đánh
thuế tại Nước ký kết kia; hoặc
(b) Nếu đối tượng
đó có mặt tại Nước
ký kết kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại đến hoặc vượt quá 183 ngày trong năm tài chính liên
quan; trong trường hợp đó, chỉ phần thu nhập phát sinh từ các hoạt động của đối tượng đó được thực hiện tại Nước kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
2. Thuật ngữ “dịch vụ ngành nghề” bao
gồm chủ yếu những hoạt động khoa học,
văn học, nghệ thuật, giáo dục hoặc giảng dạy
mang tính chất độc lập của các thầy thuốc,
luật sư, kỹ sư, kiến trúc sư, nha sĩ và kế toán viên.
ĐIỀU 15
Dịch vụ cá nhân phụ thuộc
1. Thể theo các quy định tại các Điều 16, 18 và 19, các khoản tiền lương, tiền công và
các khoản tiền thù lao tương tự khác do một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết thu được từ lao động làm công sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó trừ khi lao động làm công
của đối tượng đó được thực hiện tại Nước ký kết kia. Nếu lao động làm công được thực hiện như vậy, số tiền công trả cho lao động
làm công đó có thể bị đánh thuế tại
Nước kia.
2. Mặc dù có các quy định tại khoản 1, tiền công do một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết thu được từ lao động làm công tại Nước ký kết kia sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước thứ nhất
nếu:
(a) người nhận tiền công hiện có mặt tại Nước kia trong một khoảng thời gian hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong bất kỳ giai đoạn mười
hai tháng liên tục bắt đầu hoặc kết
thúc trong năm dương lịch có liên quan, và
(b) chủ lao động
hoặc đối tượng đại diện chủ lao động trả tiền công lao động
không phải là đối tượng cư trú của Nước kia, và
(c) tiền công không phải phát sinh tại
một cơ sở thường trú hoặc một cơ sở cố định mà chủ lao
động có tại Nước kia.
3. Mặc dù có các quy định trên của Điều này, tiền công
thu được từ việc làm công trên tàu thủy hoặc máy bay do một
doanh nghiệp của một Nước ký kết điều hành trong vận tải quốc tế chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
ĐIỀU 16
Thù lao giám đốc
Các khoản thù
lao cho giám đốc và các khoản thanh toán
tương tự khác do một đối tượng cư trú của một Nước ký kết
nhận được với tư cách là thành viên của
Ban giám đốc của một công ty là một đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia có thể bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 17
Nghệ sỹ và Vận động viên
1. Mặc dù có những quy định tại các Điều 14 và 15,
thu nhập của một đối tượng cư trú của một Nước
ký kết thu được với tư cách người biểu diễn, như diễn viên sân khấu, diễn viên điện ảnh, nghệ sỹ phát thanh hoặc truyền hình, hoặc nhạc
công, hoặc với tư cách là vận động viên từ những hoạt động cá nhân của người đó
thực hiện tại Nước ký kết kia, có thể bị
đánh thuế tại Nước kia.
2. Trường hợp thu nhập liên quan đến các hoạt động trình diễn cá nhân của người biểu
diễn hoặc vận động viên nhưng không được trả cho bản thân
người biểu diễn hoặc vận động viên mà
trả cho đối tượng khác, thì thu nhập
này có thể bị đánh thuế tại Nước ký kết nơi diễn ra những hoạt động trình diễn của người biểu diễn hoặc vận động
viên, mặc dù đã có những quy định tại các
Điều 7, 14 và 15.
3. Mặc dù đã có những quy định tại các khoản 1
và 2, thu nhập do người biểu diễn hay vận động viên là đối
tượng cư trú của một Nước ký kết thu được từ các hoạt động trình
diễn tại Nước ký kết kia theo chương trình
trao đổi văn hóa giữa Chính phủ của
hai Nước ký kết sẽ được miễn thuế tại Nước ký kết kia.
ĐIỀU 18
Tiền lương hưu
1. Thể theo các
quy định tại khoản 2 Điều 19, tiền lương hưu và các khoản thù lao tương tự khác được trả cho một đối tượng cư trú của một Nước ký
kết do các công việc đã làm trước đây sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết đó. Quy định này cũng sẽ áp dụng cho niên kim nhân thọ được trả cho một đối tượng cư
trú của một Nước ký kết.
2. Thuật ngữ
“niên kim” có nghĩa là khoản tiền nhất định, thanh toán cho một người theo định kỳ vào những thời gian nhất định
trong suốt cuộc đời của người này hoặc trong một khoảng thời
gian cụ thể hoặc khoảng thời gian đã
được xác định cụ thể theo cam kết về
nghĩa vụ để nhận lại được số tiền hay
giá trị bằng tiền toàn bộ hoặc tương ứng.
ĐIỀU 19
Phục vụ Chính phủ
1. (a) Các khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác, trừ tiền lương hưu do một Nước ký
kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó trả cho một cá nhân đối
với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa
phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước đó.
(b) Tuy nhiên, khoản tiền lương, tiền
công và các khoản tiền thù lao tương tự khác này sẽ chỉ bị
đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu việc phục vụ này được thực hiện tại Nước kia
và nếu cá nhân này là đối tượng cư trú của Nước kia, đồng thời:
(i) là đối tượng
mang quốc tịch của Nước kia; hoặc
(ii) không trở thành đối tượng cư trú của
Nước kia chỉ đơn thuần vì thực hiện các công việc trên.
2. (a) Bất kỳ khoản lương hưu nào đo
một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền
địa phương của Nước đó hoặc do các quỹ của
những cơ quan này lập ra trả cho một cá nhân đối với các công việc phục vụ cho Nhà nước hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương đó sẽ chỉ bị đánh thuế tai Nước đó.
(b) Tuy nhiên,
những khoản tiền lương hưu này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Nước ký kết kia nếu cá nhân này là
đối tượng cư trú và là đối tượng mang
quốc tịch của Nước kia.
3. Các quy định của các Điều 15, 16, 17 và 18 sẽ áp dụng đối với tiền lương, tiền công và các khoản thù lao tương tự khác, và lương hưu được trả đối với việc phục vụ liên quan đến
một hoạt động kinh doanh được tiến hành bởi
một Nước ký kết hoặc chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của Nước đó.
ĐIỀU
20
Sinh viên và Thực tập sinh
1. Những khoản
tiền mà một sinh viên hoặc một thực tập sinh kinh doanh nhận được để trang trải các chi phí sinh hoạt, học tập
hoặc đào tạo mà người sinh viên hoặc thực tập sinh này
ngay trước khi đến một Nước ký kết
đang và đã là đối
tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện
có mặt tại Nước thứ nhất chỉ với mục
đích học tập hoặc đào tạo, sẽ không bị đánh thuế tại Nước đó, với điều kiện những
khoản tiền đó có nguồn
gốc từ bên ngoài Nước này.
2. Khoản tiền thù lao mà một sinh
viên hoặc học sinh học nghề là đối tượng mang quốc tịch của một Nước ký kết nhận được từ công việc thực hiện tại Nước ký kết kia
trong một khoảng thời gian, hoặc nhiều khoảng thời gian gộp lại không quá 183 ngày trong một năm dương lịch, để đạt được những kinh nghiệm thực tế liên quan đến
việc học tập hoặc thực tập của đối tượng này sẽ không bị đánh thuế tại Nước kia.
ĐIỀU 21
Giáo viên, Giáo sư và Nhà nghiên cứu
Một cá nhân đang
hoặc ngay trước khi sang một Nước ký kết đã là đối tượng cư trú của Nước ký kết kia và hiện có
mặt tại Nước ký kết thứ nhất chủ yếu
vì mục đích giảng dạy, thuyết trình
hoặc tiến hành nghiên cứu
tại một trường đại học, cao đẳng, trưởng phổ thông hoặc cơ sở giáo dục hoặc cơ
sở nghiên cứu khoa học do Chính phủ của Nước ký kết
thứ nhất công nhận sẽ được miễn thuế tại
Nước ký kết thứ nhất đối với khoản tiền thù lao trả cho việc giảng dạy, thuyết trình hoặc nghiên cứu đó trong thời hạn hai năm kể
từ ngày đầu tiên đến Nước
ký kết thứ nhất.
ĐIỀU 22
Thu nhập khác
1. Các khoản thu
nhập của một đối tượng
cư trú của một Nước ký kết, cho dù phát sinh ở đâu, chưa
được đề cập đến tại những điều trên của Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế
tại Nước đó.
2. Các quy định tại khoản 1 sẽ không
áp dụng đối với thu nhập, trừ thu nhập từ bất động sản được
định nghĩa tại khoản 2 của Điều 6, nếu người nhận thu
nhập là đối tượng cư trú của
một Nước ký kết, tiến hành hoạt động
kinh doanh tại Nước ký kết kia thông qua một cơ sở thường trú nằm tại Nước
kia, hoặc thực hiện tại Nước kia những hoạt động dịch vụ cá nhân độc lập thông qua một cơ sở cố định
tại Nước kia, và quyền hoặc tài sản liên quan đến số thu nhập được chi trả có sự liên hệ thực tế với cơ sở thường trú hoặc cơ sở cố định trên. Trong trường hợp
này, các quy định tại Điều 7 hoặc Điều 14, tùy từng trường hợp, sẽ được áp dụng.
ĐIỀU 23
Các biện pháp xóa bỏ việc đánh thuế hai lần
1. Tại Việt Nam, việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện như
sau:
(a) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được thu nhập, lợi
nhuận hoặc giá trị tăng thêm mà theo luật của Thổ Nhĩ Kỳ
và phù hợp với Hiệp định này, có thể bị
đánh thuế tại Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam sẽ cho phép khấu trừ vào thuế đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm một khoản tiền
bằng số tiền thuế đã nộp tại Thổ Nhĩ Kỳ. Tuy
nhiên, khoản tiền thuế được khấu trừ sẽ không vượt quá số
thuế Việt Nam đánh trên thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm được tính trước
khi cho phép khấu trừ mà phần thuế này được phân bổ cho thu nhập có thể bị đánh
thuế tại Thổ Nhĩ Kỳ.
(b) Trường hợp một đối tượng cư trú của Việt Nam nhận được thu nhập mà theo các quy định của Hiệp định này sẽ chỉ bị đánh thuế tại Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam có thể gộp thu nhập này vào cơ sở tính thuế
nhưng chỉ để xác định thuế suất đối với thu nhập khác bị chịu thuế tại Việt Nam.
2. Tại Thổ Nhĩ Kỳ,
việc tránh đánh thuế hai lần sẽ được thực hiện như sau:
(a) Trường hợp một
đối tượng cư trú của Thổ Nhĩ Kỳ nhận được thu nhập mà
theo các quy định của Hiệp định này, có thể bị đánh thuế tại Việt Nam, thể theo các quy định của các
luật thuế của Thổ Nhì Kỳ liên quan đến khấu trừ thuế nước
ngoài (sẽ không ảnh hưởng đến các nguyên tắc chung của Hiệp định này), Thổ Nhĩ Kỳ sẽ cho phép trừ vào thuế thu nhập của đối tượng đó một
khoản tương đương với số thuế đã nộp
tại Việt Nam.
Tuy nhiên, số thuế
được khấu trừ như vậy sẽ không vượt quá phần thuế thu nhập
được tính tại Thổ Nhĩ Kỳ trước khi cho phép khấu trừ, được
phân bổ cho phần thu nhập có thể bị đánh thuế tại Việt Nam.
(b) Theo bất kỳ quy
định nào của Hiệp định này, trường hợp một đối tượng cư
trú của Thổ Nhĩ Kỳ có thu nhập được miễn thuế tại Thổ Nhĩ
Kỳ, khi tính thuế trên thu nhập còn lại của đối tượng cư trú đó, Thổ Nhĩ Kỳ có thể tính đến phần thu nhập đã được miễn thuế.
3. Thể theo khoản
4 của Điều này, theo nội dung khoản 2
của Điều này, thuật
ngữ “thuế thu nhập đã nộp tại Việt Nam” sẽ được coi là bao gồm bất kỳ khoản thuế nào lẽ ra phải nộp với tính chất
là thuế Việt Nam trong bất kỳ năm nào nhưng được miễn hoặc giảm thuế trong năm đó hoặc bất kỳ thời gian nào trong năm đó theo bất kỳ quy định nào sau đây của luật Việt Nam:
(a) Điều 15 của Luật thuế Thu nhập doanh
nghiệp (Số 14/2008/QH12) và các khoản 7, 8 và 9 của Điều 1 của Luật sửa đổi và bổ sung một số điều của Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (Số
32/2013/QH13) và các quy định liên quan đã được sửa đổi,
đến nay đã có hiệu lực, và chưa được sửa đổi kể từ ngày ký Hiệp định này, hoặc chỉ được sửa đổi trong một số khía
cạnh nhỏ mà không ảnh hưởng tới tính chất chung của các quy định đó; và miễn là nhà chức trách có thẩm quyền của Việt Nam xác
nhận rằng bất kỳ việc miễn hoặc giảm thuế Việt Nam theo những Điều này được ban hành nhằm
thúc đẩy phát triển công nghiệp, thương mại, khoa học,
giáo dục và phát triển khác tại Việt Nam và nhà chức trách
có thẩm
quyền của Thổ Nhĩ Kỳ chấp nhận việc miễn hoặc giảm
thuế như vậy được ban hành với mục đích trên; hoặc
(b) bất kỳ quy định nào khác nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế tại Việt Nam, có thể được ban hành, cho phép miễn hoặc giảm thuế Việt Nam
đã được các nhà chức trách
có thẩm
quyền của hai Nước ký kết chấp nhận có tính chất tương tự, nếu
những quy định này chưa được sửa đổi
sau đó hoặc chỉ được sửa đổi trong một số khía cạnh nhỏ mà không ảnh hưởng tới tính chất chung của những quy định này và luôn luôn
phải được chứng nhận và chấp thuận như được quy định tại tiết khoản (a) của khoản này.
4. Việc miễn thuế Thổ Nhĩ Kỳ theo nội dung tại khoản 3 của Điều
này sẽ chỉ được thực hiện trong thời gian 10 năm bắt đầu từ
ngày Hiệp định này có hiệu lực. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, việc miễn thuế sẽ không được thực hiện sau ngày
31/12/2025.
ĐIỀU 24
Không phân biệt đối xử
1. Các đối tượng
mang quốc tịch của một Nước ký kết sẽ không phải chịu tại Nước ký kết kia bất kỳ hình thức thuế nào hoặc bất kỳ yêu cầu nào liên quan đến hình thức thuế đó khác với hoặc nặng hơn hình thức thuế và các yêu cầu liên quan hiện đang hoặc
có thể áp dụng đối với
các đối tượng mang quốc tịch của Nước kia trong cùng các
hoàn cảnh như nhau.
2. Thể theo các
quy định tại khoản 5 Điều 10, chế độ thuế áp dụng đối với một cơ sở thường trú của một doanh
nghiệp của một Nước ký kết có tại Nước ký kết kia sẽ không
kém thuận lợi hơn tại Nước kia so với chế độ thuế áp dụng cho các doanh nghiệp
của Nước kia cùng tiến hành các hoạt động tương tự.
3. Các doanh nghiệp của một Nước ký kết
có toàn bộ hoặc một phần vốn do một hoặc nhiều đối tượng cư trú của Nước ký kết kia sở hữu hoặc kiểm soát trực tiếp hoặc
gián tiếp, sẽ không phải chịu tại Nước ký kết thứ nhất bất kỳ chế độ
thuế hoặc yêu cầu liên quan đến chế độ thuế đó khác với hoặc nặng hơn chế độ thuế và những yêu cầu liên quan hiện đang
hoặc có thể được áp dụng
cho các doanh nghiệp tương tự khác của Nước thứ nhất.
4. Những quy định này sẽ không được giải thích là buộc một Nước ký kết phải dành cho đối tượng
cư trú của Nước ký kết kia được hưởng bất kỳ suất miễn thu cá nhân, khoản miễn và giảm thuế nào vì lợi ích tư cách công dân hoặc trách nhiệm
gia đình mà Nước ký kết đó cho đối tượng cư trú của Nước mình được hưởng.
5. Những quy định tại các khoản 2 và 3 của Điều này sẽ
không áp dụng đối với thuế chuyển lợi
nhuận ra nước ngoài của Việt Nam và thuế của Việt Nam đối với các hoạt động sản xuất nông nghiệp.
6. Các quy định của Điều này sẽ chỉ áp dụng đối với các loại thuế bao gồm trong Hiệp định này.
ĐIỀU
25
Thủ tục thỏa thuận song phương
1. Trường hợp một đối tượng cư trú nhận thấy rằng việc giải quyết của
hai Nước ký kết làm cho hoặc sẽ làm cho đối tượng đó phải nộp thuế không đúng với những quy định của Hiệp định này, đối tượng này có thể giải trình trường hợp của
mình với nhà chức trách có
thẩm quyền của Nước ký kết mà đối tượng đó là đối tượng cư trú, mặc dù trong nội luật của hai Nước
đã quy định về chế độ xử lý khiếu nại, nếu trường hợp
của đối tượng này
thuộc phạm vi khoản 1 của
Điều 24 của Nước ký kết nơi đối tượng mang quốc
tịch. Trường hợp đó phải được giải
trình trong thời hạn 3 năm kể từ lần thông báo giải quyết đầu tiên dẫn đến chế độ thuế áp dụng không đúng với những quy định của Hiệp định.
2. Nhà chức trách có thẩm quyền sẽ cố gắng, nếu như việc khiếu nại là
hợp lý và nếu bản thân nhà chức trách đó
không thể đi đến
một giải pháp thỏa đáng, phối hợp với nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia để cùng giải quyết trường
hợp khiếu nại bằng thỏa thuận chung, nhằm mục đích tránh việc đánh thuế không phù hợp
với nội dung của Hiệp định này.
3. Nhà chức trách có thẩm quyền của
hai Nước ký kết sẽ cố gắng giải quyết bằng thỏa thuận chung mọi khó khăn hoặc
vướng mắc nảy sinh trong quá trình giải thích hoặc áp dụng Hiệp
định này. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước cũng có thể trao đổi với nhau nhằm xóa bỏ
việc đánh thuế hai lần trong các trường hợp
không được quy định tại Hiệp định.
4. Các nhà chức trách có thẩm quyền của hai Nước ký kết có thể liên hệ trực tiếp với
nhau, bao gồm cả việc liên hệ thông qua một ủy ban chung gồm các
nhà chức trách có thẩm
quyền của hai Nước ký kết hoặc đại diện của
nhà chức trách có thẩm
quyền, nhằm đạt được một thỏa thuận theo nội dung của các khoản trên đây.
ĐIỀU 26
Trao đổi thông tin
1. Nhà chức trách có thẩm quyền
của hai Nước ký kết sẽ trao đổi với nhau các thông tin được thấy trước là thích
hợp cho việc thực hiện các quy định của Hiệp định này hoặc để quản lý, cưỡng chế
tuân thủ các luật thuế trong nước của từng Nước ký kết hoặc của cơ quan chính quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương sao cho việc đánh thuế theo các luật
trong nước không trái với Hiệp định này. Việc trao đổi thông tin không bị giới hạn bởi
các Điều 1 và 2.
2. Mọi thông
tin do một Nước ký kết nhận được theo khoản
1 sẽ được giữ bí mật giống như thông
tin thu nhận theo các luật trong nước của Nước này và thông tin đó sẽ chỉ được cung cấp cho các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng (bao
gồm cả tòa án và các cơ quan hành chính) có liên quan đến
việc tính toán hoặc thu, cưỡng chế hoặc truy tố hoặc xác định
các khiếu nại về các loại thuế nêu tại khoản 1, hoặc giám sát các nội dung trên. Các đối tượng hoặc các cơ quan chức năng này sẽ
chỉ sử dụng các thông tin đó vào các mục đích nêu trên. Các đối tượng và các cơ quan đó có thể
cung cấp các thông tin này trong quá trình tố tụng công khai của tòa án hoặc trong các
quyết định của
tòa án.
3. Không có trường hợp nào mà các quy định tại các khoản 1 và 2 được giải
thích là buộc một Nước ký kết có
nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành
chính khác với luật pháp và thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của
Nước ký kết kia;
(b) cung cấp các
thông tin không thể tiết lộ được theo luật pháp hoặc theo như quá trình quản lý hành chính thông thường của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(c) cung cấp các thông tin có thể làm
tiết lộ bí mật về mậu dịch, kinh
doanh, công nghiệp, thương mại hoặc bí mật nghề nghiệp hoặc quy trình kinh doanh, hoặc cung cấp các thông tin mà việc
tiết lộ chúng có thể trái với chính sách công (ordre public).
4. Nếu thông tin do một Nước ký
kết yêu cầu phù hợp với Điều này, Nước ký kết kia sẽ sử dụng các biện pháp thu thập thông tin của mình để có
được các thông tin theo yêu cầu, mặc dù Nước kia có
thể không cần các thông tin như vậy cho mục đích thuế của mình. Nghĩa vụ được quy định
tại câu trên phụ thuộc vào các giới hạn tại khoản 3 nhưng trong mọi trường hợp, các giới hạn này không có nghĩa là cho
phép một Nước ký kết từ chối việc cung cấp thông tin chỉ
vì Nước ký kết đó không có lợi ích trong nước đối
với các thông tin như vậy.
5. Trong mọi trường hợp, các quy định
tại khoản 3 sẽ không cho phép một Nước ký
kết từ chối việc cung cấp
thông tin chỉ vì thông tin do một ngân hàng, tổ
chức tài chính, đối tượng được chỉ định hoặc đối tượng với tư cách đại
lý hoặc đối tượng được ủy thác khác nắm giữ hoặc chỉ vì thông tin có liên quan tới các lợi ích về sở hữu trong một đối tượng.
ĐIỀU 27
Hỗ trợ thu thuế
1. Các Nước ký kết sẽ hỗ trợ lẫn nhau
trong việc thu các khoản thu. Sự hỗ trợ này không bị giới hạn bởi các Điều 1 và
2. Nhà chức trách có thẩm quyền của các Nước ký kết có thể
giải quyết phương thức áp dụng Điều này thông qua thỏa
thuận song phương.
2. Thuật ngữ “khoản
thu” được sử dụng tại Điều này có nghĩa là một số tiền nợ
về các loại thuế hoặc các khoản thu được đánh bởi một Nước ký kết, chính
quyền cơ sở hoặc chính quyền địa phương của
Nước đó trong chừng mực việc đánh thuế như vậy không trái với Hiệp định này hoặc
bất cứ các văn kiện nào mà các Nước
ký kết là các bên cũng như các khoản tiền lãi, phạt hành
chính và các khoản chi phí để thu hoặc
bảo vệ liên quan đến số tiền đó.
3. Nếu một khoản thu của một Nước ký kết có hiệu
lực áp dụng tại Nước đó và bị nợ bởi
một đối tượng mà vào thời điểm đó,
theo luật của Nước đó không thể chống lại việc thu đối với
đối tượng đó thì khoản thu đó theo
yêu cầu của Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó sẽ được
chấp nhận cho mục đích thu của Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia. Khoản thu đó sẽ được thu bởi Nước ký kết
kia theo các quy định của luật được áp dụng
để thực thi và thu các khoản thuế của Nước ký kết kia như thể khoản thu đó là khoản thu của Nước ký kết kia.
4. Nếu một khoản
thu của một Nước ký kết là một khoản thu mà đối với nó Nước đó có thể theo luật của mình tiến hành các biện pháp bảo vệ để đảm bảo việc thu
của mình thì khoản thu đó theo yêu cầu của Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước đó sẽ được chấp
nhận cho mục đích áp dụng các biện pháp bảo vệ của
Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước ký kết kia. Nước ký kết
kia sẽ tiến hành các hiện pháp bảo vệ đối với khoản thu đó theo các quy định của luật được áp dụng của mình như
thể khoản thu đó là một khoản thu của Nước ký kết kia mặc dù vào thời điểm áp dụng các biện pháp như vậy khoản thu đó không có hiệu lực thi hành tại Nước ký kết thứ nhất hoặc bị nợ bởi một đối tượng có quyền để chống lại khoản thu đối với đối tượng đó.
5. Mặc dù các
quy định tại các khoản 3 và 4, một khoản thu được chấp nhận
bởi một Nước ký kết cho các mục đích của
các khoản 3 và 4 sẽ không bị phụ thuộc vào thời hạn hoặc tuân theo bất kỳ sự ưu
đãi nào được áp dụng đối với một khoản
thu của Nước ký kết đó do tính chất như vậy của khoản thu đó. Ngoài ra, một khoản thu được
chấp nhận bởi một Nước ký kết cho các mục đích của các khoản 3 và 4 tại Nước ký kết đó sẽ không có bất kỳ sự ưu đãi nào được áp dụng đối với khoản thu đó theo các luật của Nước ký kết kia.
6. Các thủ
tục tố tụng đối với sự tồn tại, hiệu lực và số tiền của một khoản thu của
một Nước ký kết sẽ không bị đưa ra
trước các tòa án hoặc các cơ quan hành chính của Nước ký kết
khác.
7. Khi vào bất cứ thời điểm nào sau khi một yêu cầu đã được đưa ra bởi một Nước ký kết theo các khoản 3 và 4 và trước khi Nước ký kết khác đã thu và chuyển khoản
thu tương ứng cho Nước ký kết thứ nhất, khoản thu tương ứng sẽ không còn là
(a) trong trường hợp một yêu cầu theo
khoản 3, một khoản thu của Nước ký
kết thứ nhất có thể có hiệu lực theo luật của
Nước đó và bị nợ bởi một đối tượng mà
vào thời điểm đó,
theo luật của Nước đó không thể chống lại việc thu đối với đối tượng đó,
hoặc
(b) trong trường
hợp một yêu cầu theo khoản 4, một khoản thu của Nước ký
kết thứ nhất mà đối với nó Nước đó có thể theo luật của mình tiến hành các biện
pháp bảo vệ để đảm bảo việc thu của mình
nhà chức trách
có thẩm quyền của Nước ký kết thứ nhất sẽ ngay lập tức
thông báo với Nhà chức trách có thẩm quyền của Nước kia về thực tế đó và, theo sự lựa chọn của Nước kia, Nước ký kết thứ nhất sẽ hoãn hoặc rút lại yêu cầu của mình.
8. Không có nội dung
nào tại Điều này sẽ được giải thích là buộc một Nước ký kết có nghĩa vụ:
(a) thực hiện các biện pháp hành chính khác với luật pháp và thông lệ về quản lý hành chính của Nước ký kết đó hoặc của Nước ký kết kia;
(b) thực hiện các biện pháp trái với chính sách công (ordre
public);
(c) cung cấp sự hỗ trợ nếu Nước ký
kết kia đã không tiến hành các biện pháp hợp lý để thu hoặc bảo vệ,
tùy theo từng trường hợp, có thể được
áp dụng theo luật hoặc thông lệ về quản
lý hành chính của Nước ký kết kia;
(d) cung cấp sự
hỗ trợ trong các trường hợp mà gánh nặng hành chính của Nước đó hoàn toàn không
tương xứng với lợi ích đạt được bởi Nước ký kết kia.
ĐIỀU 28
Thành viên Cơ quan đại diện ngoại giao và
Cơ quan lãnh sự
Không nội dung nào tại Hiệp định này ảnh hưởng đến các ưu đãi về thuế của thành viên cơ quan đại diện
ngoại giao và cơ quan lãnh sự theo các quy phạm chung của
pháp luật quốc tế hoặc
các quy định tại các hiệp định đặc biệt.
ĐIỀU 29
Hiệu lực
1. Mỗi Nước ký kết sẽ thông báo cho Nước ký kết kia việc hoàn tất các thủ tục
theo yêu cầu của luật pháp nước mình để Hiệp định có hiệu lực. Hiệp định này
sẽ có hiệu lực kể từ thời điểm thông
báo sau cùng.
2. Hiệp định này sẽ có hiệu lực thi hành;
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các khoản thuế khấu trừ
tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả từ hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định này có
hiệu lực;
(ii) đối với các khoản thuế Việt Nam khác, liên quan đến thu
nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng thêm phát sinh từ hoặc
sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm Hiệp định
này có hiệu lực;
(b) tại Thổ Nhĩ
Kỳ:
đối với các loại
thuế, liên quan đến tất cả các giai đoạn chịu thuế bắt đầu từ và vào ngày đầu tiên của tháng 1 của năm tiếp theo năm Hiệp định có hiệu lực.
ĐIỀU 30
Chấm dứt hiệu lực
Hiệp định này sẽ
vẫn còn hiệu lực cho tới khi một Nước ký kết tuyên bố chấm dứt hiệu lực. Từng Nước ký kết thông qua đường
ngoại giao có thể chấm dứt hiệu lực Hiệp định bằng cách gửi thông báo chấm dứt
hiệu lực Hiệp định ít nhất 6 tháng trước khi kết thúc bất
kỳ năm dương lịch nào bắt đầu sau thời hạn 5 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực. Trong trường hợp như vậy, Hiệp định sẽ hết hiệu lực
thi hành:
(a) tại Việt Nam:
(i) đối với các
khoản thuế khấu trừ tại nguồn, liên quan đến các khoản thu nhập chịu thuế được chi trả từ hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm nhận được
thông báo;
(ii) đối với các
khoản thuế Việt Nam khác, liên quan đến thu nhập, lợi nhuận hoặc giá trị tăng
thêm phát sinh từ hoặc sau ngày 1 tháng 1 của năm dương lịch tiếp sau năm nhận được thông báo;
(b) tại Thổ Nhĩ
Kỳ:
đối với các loại
thuế, liên quan đến tất cả các giai đoạn chịu thuế bắt đầu
từ và vào ngày đầu tiên của tháng 1
của năm tiếp theo năm nhận được thông báo.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có
tên dưới đây, được sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Hiệp định này.
LÀM tại
An-ca-ra ngày 08 tháng 7 năm 2014 thành
hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Thổ Nhĩ
Kỳ và tiếng Anh, tất cả các bản đều có giá trị như nhau. Trường
hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA
THỔ NHĨ KỲ
Abdullah Erdem CANTIMUR
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
NGHỊ ĐỊNH THƯ
Tại thời điểm ký kết Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần và ngăn ngừa việc trốn lậu thuế đối với các loại thuế đánh vào
thu nhập giữa Chính phủ nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ và Chính phủ nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, những
người ký tên dưới đây đã thỏa thuận
các điều khoản dưới đây sẽ là một bộ phận hợp thành của Hiệp định.
Liên quan đến khoản 3(a) Điều 5:
Trường hợp, theo bất kỳ Hiệp định nào khác giữa Việt Nam với một nước
được ký kết sau ngày ký Hiệp định này, Việt Nam đồng ý, tại các quy định có liên quan đến khoản 3(a) Điều 5 (Cơ sở thường trú) của Hiệp định này về khoảng thời gian dài hơn khoảng thời gian đã được quy định tại khoản này, khi đó khoảng thời gian dài nhất sẽ được
áp dụng theo nội dung của khoản 3(a)
Điều 5 có hiệu lực kể
từ ngày khoảng thời
gian dài nhất theo Hiệp định đó có hiệu lực.
Liên quan đến khoản 3 Điều 10:
Trong trường hợp của Thổ Nhĩ Ký, hai bên thống nhất rằng thuật ngữ “tiền lãi cổ phần” cũng sẽ bao gồm thu nhập từ các quỹ đầu tư
và tín thác đầu tư.
Liên quan đến Điều 10:
Nếu sau ngày 23
tháng 10 năm 2009, Việt Nam ký một Hiệp định về việc tránh đánh thuế hai lần với một nước thành viên của Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế quy
định mức thuế suất thấp hơn đối với tiền lãi cổ phần (bao gồm cả mức thuế suất bằng 0) thì khi đó những mức
thuế suất thấp hơn này sẽ được áp dụng cho các đối tượng cư trú của Thổ Nhĩ Kỳ.
ĐỂ LÀM BẰNG những người có tên dưới đây, được
sự ủy quyền hợp thức của Chính phủ nước mình, đã ký vào Nghị định thư này.
LÀM tại An-ca-ra ngày 08 tháng 7 năm 2014
thành hai bản, mỗi bản bằng tiếng Việt, tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Anh, tất cả
các bản đều có giá trị như nhau. Trường hợp có sự giải thích khác nhau, văn bản
tiếng Anh sẽ được dùng làm cơ sở.
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Đỗ Hoàng Anh Tuấn
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|
THAY
MẶT CHÍNH PHỦ
NƯỚC CỘNG HÒA
THỔ NHĨ KỲ
Abdullah Erdem CANTIMUR
Thứ trưởng Bộ Tài chính
|