KẾT LUẬN
CỦA BỘ CHÍNH TRỊ
VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 33-NQ/TW CỦA BAN CHẤP HÀNH TRUNG ƯƠNG ĐẢNG
KHOÁ XI VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN VĂN HOÁ, CON NGƯỜI VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU
PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG ĐẤT NƯỚC VÀ KẾT LUẬN SỐ 76-KL/TW CỦA BỘ CHÍNH TRỊ KHOÁ XII
VỀ TIẾP TỤC THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT SỐ 33-NQ/TW
1. Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết số
33-NQ/TW, công tác xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam có nhiều
mặt tiến bộ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể các cấp đã nghiêm túc
quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết, quan tâm đầu tư nguồn lực xây dựng,
phát triển văn hoá, con người. Công tác quản lý nhà nước có chuyển biến tích cực;
thể chế, chính sách từng bước được hoàn thiện; nhiều chính sách mới được ban
hành; các thủ tục hành chính được sửa đổi, bổ sung, góp phần thúc đẩy phát triển
văn hoá, văn học, nghệ thuật. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện
được coi trọng; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh gắn với Phong trào
"Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá", Cuộc vận động
"Toàn dân đoàn kết xây dựng nông thôn mới, đô thị văn minh" được triển
khai rộng khắp, đạt kết quả tích cực. Xây dựng văn hoá trong chính trị gắn với
học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh và các nghị quyết,
chỉ thị, kết luận của Đảng về xây dựng, chỉnh đốn Đảng có nhiều chuyển biến,
góp phần ngăn chặn, đẩy lùi và xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển
hoá". Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực tiếp tục được đẩy
mạnh, thực hiện quyết liệt, đồng bộ, toàn diện và hiệu quả hơn. Xây dựng văn
hoá trong kinh tế được triển khai gắn với thực hiện Cuộc vận động "Xây dựng
văn hoá doanh nghiệp Việt Nam", góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ.
Các hoạt động văn hoá, văn học, nghệ thuật được tổ
chức với nhiều hình thức phong phú, cơ bản đáp ứng nhu cầu thụ hưởng văn hoá của
các tầng lớp nhân dân; các cấp, các ngành quan tâm hơn đến công tác bảo tồn,
phát huy giá trị các di sản văn hoá gắn với phát triển du lịch, xây dựng môi
trường văn hoá lành mạnh. Phát triển công nghiệp văn hoá đi đôi với xây dựng,
hoàn thiện thị trường sản phẩm văn hoá được triển khai tích cực, có chuyển biến
rõ nét, bước đầu đạt kết quả rất đáng khích lệ; hoạt động giao lưu, hợp tác quốc
tế về văn hoá có nhiều chuyển biến theo hướng hiệu quả và thực chất.
Tuy nhiên, việc thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW
còn một số hạn chế, yếu kém, như: Một số cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền,
đoàn thể chưa nhận thức đầy đủ, sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của
việc xây dựng và phát triển văn hoá, con người đối với sự phát triển nhanh, bền
vững đất nước; chưa đặt văn hoá ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội; nguồn
lực đầu tư cho văn hoá, con người còn dàn trải, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
đất nước trong giai đoạn mới. Nguyên nhân chủ yếu là do tư duy quản lý chưa
theo kịp thực tiễn; việc thể chế hoá quan điểm, chủ trương của Đảng về văn hoá,
con người còn chậm; công tác quản lý nhà nước có lúc, có nơi còn hạn chế; chất
lượng và số lượng đội ngũ cán bộ trực tiếp làm công tác văn hoá một số nơi chưa
đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Việc xây dựng văn hoá trong chính trị, kinh tế, xã hội
chưa chuyển biến rõ nét; vẫn còn tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, của một số trí thức,
văn nghệ sĩ, doanh nhân. Việc xây dựng môi trường văn hoá trong xã hội, cộng đồng,
gia đình, nhà trường ở một số nơi chưa được triển khai đồng bộ, còn phiến diện,
chưa đi vào chiều sâu; hoạt động văn hoá trên không gian mạng xuất hiện xu hướng
lệch lạc, còn nhiều thông tin xấu độc, tin giả tác động tiêu cực đến nhận thức
và hành vi của người dân, nhất là giới trẻ. Chưa thu hẹp được khoảng cách hưởng
thụ văn hoá giữa các vùng, miền; đời sống văn hoá ở vùng đồng bào dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, hải đảo còn khó khăn.
2. Để xây dựng và phát triển văn hoá, con
người Việt Nam thực sự trở thành "nền tảng", "nguồn lực nội
sinh", "động lực phát triển" đất nước nhanh, bền vững trong kỷ
nguyên mới, Bộ Chính trị yêu cầu:
2.1. Các cấp uỷ, tổ chức đảng, chính
quyền, đoàn thể, người đứng đầu các tổ chức, cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục
nâng cao nhận thức, tăng cường trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo quán triệt và triển
khai thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 33-NQ/TW, Kết luận số 76-KL/TW và các
nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng về văn hoá, con người Việt Nam; chú trọng
bảo tồn, phát huy giá trị văn hoá truyền thống, phát triển các giá trị văn hoá
Việt Nam thống nhất trong đa dạng; chú trọng xây dựng con người Việt Nam phát
triển toàn diện, coi đó là nhiệm vụ trọng tâm, hàng đầu, gắn kết chặt chẽ với
xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh nhằm khơi dậy và phát huy mạnh mẽ tinh thần
yêu nước, tự chủ, tự tin, tự lực, tự cường, tự hào dân tộc, khát vọng cống hiến
của mọi người dân và truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nền
tảng vững chắc để thực hiện thành công mục tiêu phát triển đất nước giàu mạnh,
phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Phát triển văn hoá vì hạnh phúc của con người, con
người là chủ thể, nguồn lực, động lực quan trọng của sự phát triển. Cần đẩy mạnh
tuyên truyền, lan toả sâu rộng hệ giá trị quốc gia, hệ giá trị văn hoá, hệ giá
trị gia đình và chuẩn mực con người Việt Nam trong giai đoạn mới; phát huy vai
trò của cả hệ thống chính trị trong phát triển văn hoá, con người gắn với xây dựng,
phát triển đất nước nhanh, bền vững.
Đẩy mạnh xây dựng văn hoá trong chính trị, tập
trung xây dựng văn hoá trong Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững
mạnh; đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; phát huy vai trò,
trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu, cán bộ
lãnh đạo, quản lý, quản trị các cấp. Chú trọng xây dựng môi trường văn hoá liêm
chính, đề cao đạo đức công vụ, văn hoá ứng xử trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể.
Đẩy mạnh xây dựng văn hoá doanh nghiệp, văn hoá doanh nhân Việt Nam trong thời
kỳ mới.
Phát triển toàn diện, đồng bộ, nâng cao chất lượng,
hiệu quả hoạt động văn hoá; tạo cơ chế, điều kiện thuận lợi cho văn học, nghệ
thuật phát triển mạnh mẽ, đa dạng, có nhiều tác phẩm có giá trị tư tưởng, nghệ
thuật cao, sức lan toả rộng rãi, phản ánh sức mạnh thời đại và thành tựu phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước, tôn vinh, biểu dương, ca ngợi những giá trị
truyền thống, giá trị tốt đẹp của dân tộc, của con người Việt Nam. Tôn trọng và
bảo vệ sự biểu đạt đa dạng của văn hoá; phát huy vai trò chủ thể sáng tạo, cải
thiện, nâng cao mức thụ hưởng văn hoá của Nhân dân; thu hẹp khoảng cách thụ hưởng
văn hoá giữa các vùng, miền.
Khẩn trương hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách và
ưu tiên bổ sung nguồn lực thúc đẩy phát triển mạnh mẽ văn hoá, con người Việt
Nam trong giai đoạn mới; huy động mọi nguồn lực, động lực xây dựng và phát triển
văn hoá, con người; phấn đấu mức chi cho văn hoá không thấp hơn 2% tổng chi
ngân sách nhà nước; xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao, cán bộ cấp chiến lược; có giải pháp đột phá đẩy mạnh
phát triển công nghiệp văn hoá bảo đảm các yếu tố: Đổi mới, sáng tạo, bản sắc,
độc đáo, chuyên nghiệp, lành mạnh, cạnh tranh, bền vững; xây dựng môi trường
văn hoá số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số; chủ động hội
nhập quốc tế về văn hoá, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại và thúc đẩy quảng
bá bản sắc văn hoá Việt Nam trong cộng đồng quốc tế.
2.2. Đảng uỷ Quốc hội chỉ đạo rà
soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống pháp luật về xây dựng và
phát triển văn hoá, con người Việt Nam, nhất là các nội dung điều chỉnh trực tiếp
lĩnh vực văn hoá, văn học, nghệ thuật, bảo đảm đồng bộ, thống nhất, tạo sự đột
phá. Tăng cường giám sát việc thực thi chính sách, pháp luật về xây dựng và
phát triển văn hoá, con người.
2.3. Đảng uỷ Chính phủ chỉ đạo việc
thể chế hoá, xây dựng cơ chế, chính sách, rà soát, điều chỉnh, bổ sung các văn
bản phù hợp tính đặc thù của lĩnh vực văn hoá, văn học, nghệ thuật nhằm nâng
cao hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Ưu tiên bố trí nguồn lực hợp
lý, có trọng tâm, trọng điểm bảo đảm thực hiện đạt các mục tiêu, nhiệm vụ, giải
pháp Nghị quyết số 33-NQ/TW, Kết luận số 76-KL/TW và các nghị quyết, chỉ thị, kết
luận của Đảng về văn hoá, con người Việt Nam.
2.4. Đảng uỷ Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể Trung ương tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhằm tạo
sự đoàn kết, thống nhất trong các tầng lớp nhân dân, nâng cao nhận thức của hội
viên, đoàn viên, các giai tầng xã hội về vai trò, trách nhiệm của mình trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển nhanh, bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.
2.5. Các ban đảng, các đảng uỷ, tỉnh
uỷ, thành uỷ trực thuộc Trung ương theo chức năng, nhiệm vụ tiếp tục lãnh đạo,
chỉ đạo triển khai thực hiện, tập trung tham mưu, đề xuất cơ chế, chính sách,
nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm, trọng điểm nhằm thực hiện có hiệu quả Nghị quyết
số 33-NQ/TW, Kết luận số 76-KL/TW và các nghị quyết, chỉ thị, kết luận của Đảng
về văn hoá, con người Việt Nam.
2.6. Ban Tuyên giáo và Dân vận Trung
ương theo dõi, hướng dẫn, đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện Kết luận;
định kỳ báo cáo Bộ Chính trị, Ban Bí thư.
3. Yêu cầu các cấp uỷ trực thuộc Trung ương
xây dựng Kế hoạch thực hiện Kết luận này, trong đó nêu rõ nội dung, trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân, thời hạn thực hiện; gửi về Bộ Chính trị (qua Ban Tuyên
giáo và Dân vận Trung ương) trước tháng 7/2025.
Nơi nhận:
- Các tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ
trực thuộc Trung ương,
- Các ban đảng Trung ương,
- Các đảng uỷ bộ, ngành,
tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương,
- Các đảng uỷ đơn vị sự nghiệp ở Trung ương,
- Các đồng chí Ủy viên
Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
- Lưu Văn phòng Trung ương Đảng.
|
T/M BỘ CHÍNH TRỊ
Trần Cẩm Tú
|