BỘ
TÀI CHÍNH
-------
|
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
---------------
|
Số: 2173/BTC-TCT
V/v trả lời
kiến nghị của cử tri gửi gửi đến sau Kỳ họp thứ 2 và kỳ họp bất thường lần
thứ nhất, Quốc hội khóa XV
|
Hà Nội, ngày 07 tháng 3 năm
2022
|
Kính gửi: Đoàn Đại biểu Quốc hội
thành phố Hải Phòng.
Bộ Tài chính xin trả lời kiến nghị của cử thành phố Hải
Phòng do Ban Dân nguyện - Ủy ban Thường vụ Quốc hội chuyển đến tại văn bản số
580/BDN ngày 22/01/2022 như sau:
Nội dung kiến nghị:
Ngày 01/7/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết số
68/NQ-CP về một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao động gặp
khó khăn do đại dịch Covid-19. Nghị quyết đã bám sát thực tiễn, thể hiện tính
nhân văn của chính sách với phương châm “Không để ai bị bỏ lại phía sau” trong
đại dịch. Tuy nhiên, quá trình thực hiện Nghị quyết số 68/NQ-CP của Chính phủ;
Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07/7/2021 của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh
vực cho vay trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất kinh doanh còn có
vướng mắc như sau: Đối với khách hàng hoạt động trong lĩnh vực vận tải, hàng
không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người lao động đi làm việc ở nước ngoài
theo hợp đồng để phục hồi sản xuất, kinh doanh phải có Thông báo đã hoàn thành
quyết toán thuế năm 2020 thì cơ quan thuế phải thực hiện kiểm tra doanh nghiệp
thì mới ban hành được thông báo quyết toán thuế, thực tế trong điều kiện dịch bệnh
Covid-19 diễn biến phức tạp các cơ quan thuế không thể thực hiện kiểm tra hết
các doanh nghiệp được (tình trạng này xảy ra trên toàn quốc). Cử tri kiến nghị
thủ tướng Chính phủ xem xét sửa đổi một số nội dung tại Điều 38 Quyết định số
23/2021/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ theo hướng các doanh nghiệp hoạt động trong
các lĩnh vực trên không cần phải có Thông báo quyết toán thuế tại thời điểm vay
vốn để phù hợp với tình hình thực tiễn.
Bộ Tài chính xin trả lời:
Về vấn đề này, ngày 06/11/2021, Thủ tướng Chính phủ
đã ban hành Quyết định số 33/2021/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung một số điều của quyết
định số 23/2021/QĐ-TTg ngày 07 tháng 7 năm 2021 của Thủ tướng Chính phủ quy định
về việc thực hiện một số chính sách hỗ trợ người lao động và người sử dụng lao
động gặp khó khăn do đại dịch Covid-19, trong đó tại khoản 22, khoản 23 Điều 1
quy định:
“22. Sửa đổi, bổ sung Điều 38 như sau:
Điều 38. Điều kiện vay vốn
1. Người sử dụng lao động được vay vốn trả lương ngừng
việc khi có người lao động làm việc theo hợp đồng lao động đang tham gia bảo hiểm
xã hội bắt buộc đến tháng liền kề trước thời điểm người lao động ngừng việc, phải
ngừng việc từ 15 ngày liên tục trở lên theo quy định khoản 3 Điều 99 Bộ luật
Lao động trong thời gian từ ngày 01 tháng 5 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 3
năm 2022.
2. Điều kiện vay vốn trả lương cho người lao động khi
phục hồi sản xuất, kinh doanh của người sử dụng lao động
a) Đối với người sử dụng lao động phải tạm dừng hoạt
động toàn bộ hoặc một phần theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
phòng, chống dịch COVID-19 hoặc có trụ sở chính, chi nhánh, văn phòng đại diện,
địa điểm sản xuất, kinh doanh trên địa bàn thực hiện các biện pháp phòng, chống
dịch theo nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg hoặc áp dụng các biện pháp không
hoạt động/ngừng hoạt động/hoạt động hạn chế/hoạt động có điều kiện/hoạt động hạn
chế, có điều kiện theo quy định tại Nghị quyết số 128/NQ-CP trong thời gian từ
ngày 01 tháng 5 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 3 năm 2022:
- Có người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc tại thời điểm đề nghị vay vốn.
- Có phương án hoặc kế hoạch phục hồi sản xuất, kinh
doanh đối với trường hợp phải tạm dừng hoạt động.
b) Đối với người sử dụng lao động hoạt động trong
lĩnh vực vận tải, hàng không, du lịch, dịch vụ lưu trú và đưa người Lao động Việt
Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng:
- Có người lao động làm việc theo hợp đồng lao động
đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc đến thời điểm đề nghị vay vốn.
- Có phương án hoặc kế hoạch phục hồi sản xuất, kinh
doanh.”
23. Sửa đổi, bổ sung điểm c và điểm đ khoản 1 Điều 40
như sau:
“c) Bản sao một trong các giấy tờ sau: Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp hoặc Giấy chứng nhận đăng ký Hợp tác xã/hộ kinh doanh; Quyết
định thành lập của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (nếu có).
Trường hợp đối với ngành, nghề kinh doanh có điều kiện
thì cung cấp thêm bản sao Giấy phép kinh doanh hoặc Giấy phép hoạt động hoặc Chứng
chỉ hành nghề hoặc Giấy phép đầu tư hoặc Giấy chứng nhận đầu tư đối với doanh
nghiệp được thành lập bởi nhà đầu tư nước ngoài.
đ) Bản sao văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền
về việc người sử dụng lao động phải tạm dừng toàn bộ hoặc một phần hoạt động để
phòng, chống dịch COVID-19 hoặc thực hiện các biện pháp phòng, chống dịch theo
nguyên tắc của Chỉ thị số 16/CT-TTg hoặc áp dụng các biện pháp không hoạt động/ngừng
hoạt động/hoạt động hạn chế/hoạt động có điều kiện/hoạt động hạn chế, có điều
kiện theo quy định tại Nghị quyết số 128/NQ-CP trong thời gian từ ngày 01 tháng
5 năm 2021 đến hết ngày 31 tháng 3 năm 2022 (đối với trường hợp vay vốn trả
lương phục hồi sản xuất, kinh doanh).”
Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 38 Quyết định số
33/2021/QĐ-TTg về hồ sơ đề nghị vay vốn đã bỏ quy định về “đã hoàn thành quyết
toán thuế năm 2020 tại thời điểm đề nghị vay vốn” tại điều kiện vay vốn và “bản
sao thông báo quyết toán thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2020 của cơ quan thuế đối
với người sử dụng lao động” quy định tại Quyết định số 23/2021/QĐ-TTg , do vậy
đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay được thuận tiện
hơn.
Trên đây là trả lời của Bộ Tài chính đối với kiến nghị
của cử tri thành phố Hải Phòng, trân trọng gửi tới Đoàn Đại biểu Quốc hội thành
phố Hải Phòng để trả lời cử tri./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Ban Dân nguyện - UBTVQH;
- Văn phòng Bộ;
- Các Vụ: PC, CST (BTC);
- Cục Thuế thành phố Hải Phòng;
- Cục THTK (để đăng tải cổng TTĐT);
- Lưu: VT, TCT(VT, CS).
|
BỘ TRƯỞNG
Hồ Đức Phớc
|