Kính gửi:
UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
Ngày 23 tháng 11 năm 2017, tại Kỳ họp thứ 4 Quốc
hội khóa XIV đã thông qua Luật Thủy sản, Luật này có hiệu lực kể từ ngày 01
tháng 01 năm 2019. Để kịp thời cung cấp thông tin và tổ chức thực hiện khi Luật
có hiệu lực thi hành, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị UBND các tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung ương:
1. Xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai thi hành
Luật Thủy sản số 18/2017/QH14 trên địa bàn tỉnh.
2. Xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật theo
nội dung được giao tại Khoản 1, Điều 62 Luật Thủy sản số
18/2017/QH14.
3. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến nội dung của
Luật đến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật.
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã xây dựng
tài liệu về những nội dung cơ bản của Luật Thủy sản năm 2017 và gửi kèm theo
công văn này.
Đề nghị Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương tổ chức triển khai và chỉ đạo thực hiện./.
Nơi nhận:
- Như trên;
- Bộ trưởng (để b/c);
- Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
- Chị cục Thủy sản;
- Lưu: VT, TCTS (06b).
|
KT. BỘ TRƯỞNG
THỨ TRƯỞNG
Vũ Văn Tám
|
PHỤ LỤC
NỘI DUNG TÀI LIỆU GIỚI THIỆU, PHỔ BIẾN LUẬT THUỶ SẢN SỐ
18/2017/QH14
(Kèm theo Công văn số 1891 /BNN-TCTS ngày 08 tháng 3 năm 2018 của Bộ trưởng
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn)
I. SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT:
Luật Thuỷ sản được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004, đã tạo khuôn khổ pháp lý quan trọng, điều chỉnh toàn diện các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực thủy sản. Thực tiễn những năm qua cho thấy, Luật Thuỷ sản 2003 và các văn bản
dưới luật đã dần đi vào cuộc sống; khuyến khích các tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân và cộng đồng dân cư tham gia vào nuôi trồng, khai thác, bảo vệ và phát triển
nguồn lợi thuỷ sản, thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và nâng cao tính cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực thuỷ sản; góp phần tạo việc làm, nâng
cao thu nhập, cải thiện sinh kế cho ngư dân, phát triển kinh tế của đất nước
trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Nhờ đó, trong những năm gần đây ngành thuỷ sản Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận, có
đóng góp lớn trong giá trị kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, năm 2016 giá trị
kim ngạch xuất khẩu đạt trên 7,16 tỷ USD và năm 2017 đạt 8,3 tỷ USD.
Ngành thủy sản đã, đang phát triển mạnh và xác định sẽ trở thành một ngành
sản xuất hàng hóa, có thương hiệu, có khả năng cạnh tranh cao trong hội nhập
kinh tế quốc tế, trên cơ sở phát huy lợi thế của một ngành sản xuất - khai thác
tài nguyên có khả năng tái tạo, lợi thế của nghề cá nhiệt đới, dần chuyển từ
nghề cá nhân dân sang nghề cá hiện đại, có kiểm soát và có trách nhiệm nhằm tạo
sự phát triển đồng bộ và đóng góp ngày càng lớn vào sự phát triển kinh tế - xã
hội đất nước (theo Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020).
Tuy nhiên, trong bối cảnh biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường.
Nguồn lợi thuỷ sản đã và đang suy giảm, môi trường sống của các loài thuỷ sản
có nguy cơ bị ô nhiễm nghiêm trọng, sự phát triển thủy sản chưa thực sự hiệu quả
và thiếu bền vững; yêu cầu của hội nhập quốc tế; năng lực, kinh nghiệm quản lý
và trang thiết bị phục vụ cho kiểm tra, kiểm soát các hoạt động thuỷ sản còn hạn
chế; xu hướng bảo hộ mậu dịch, hàng rào kỹ thuật của các nước nhập khẩu là
thách thức lớn đối với thuỷ sản Việt Nam.
Sau 13 năm
thi hành Luật Thủy sản 2003 thực tế đã đặt ra các yêu cầu
cần phải nghiên cứu, sửa đổi như:
- Một số quy định của Luật Thuỷ sản
2003 khi triển khai thực hiện đã bộc lộ hạn chế, bất cập, chưa theo kịp với sự
phát triển nhanh của Ngành thuỷ sản Việt Nam như: Quy định về quy hoạch
quản lý và phát triển nguồn lợi thủy sản; điều tra nghiên cứu nguồn lợi thủy sản;
quản lý đối với hoạt động nuôi trồng thủy sản; quản lý hoạt động thả phóng
sinh, thả tái tạo nguồn lợi thủy sản; quản lý giấy phép khai thác thủy sản;
đăng kiểm tàu cá; kiểm ngư...
- Một số quy định mới của các Điều
ước quốc tế về thuỷ sản đòi hỏi phải sửa đổi, bổ sung Luật Thuỷ sản cho phù hợp
(như Hiệp định về các biện pháp của quốc gia có cảng; quy
định về chống khai thác bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định...).
- Yêu cầu trong công tác cải cách
hành chính của Chính phủ Việt Nam, tăng cường thực hiện xã hội hóa các dịch
vụ công, đơn giản hóa thủ tục hành chính, phân cấp tối đa cho địa phương; rà
soát đơn giản hóa các điều kiện đầu tư kinh doanh.
- Một số quy định của Luật Thuỷ sản
2003 không còn phù hợp với các Luật mới được Quốc hội thông qua có liên quan đến lĩnh vực thủy sản (Luật Đầu tư, Luật
Doanh nghiệp, Luật Đất đai,...).
Vì vậy, để khắc phục những tồn tại,
bất cập nêu trên việc sửa đổi Luật Thuỷ sản 2003 là hết sức
cần thiết.
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM:
1. Mục tiêu: Thiết lập khung pháp lý điều
chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực thủy sản nhằm nâng cao thu nhập, cải
thiện đời sống ngư dân; phát triển thủy sản bền vững và có trách nhiệm; ứng phó
với biến đổi khí hậu và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia trên biển.
2. Quan điểm:
Thứ nhất, thể chế hoá chủ trương, đường lối,
chính sách đổi mới của Đảng về thuỷ sản; phù hợp với chiến lược phát triển
ngành thủy sản, phát triển theo chuỗi giá trị, nâng cao giá trị gia tăng, thúc
đẩy phát triển ngành thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn và phát triển bền vững
(Chiến lược phát triển thủy sản Việt Nam đến năm 2020; Nghị quyết hội nghị lần
thứ tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm
2020; Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 09/02/2007; Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008...).
Thứ hai, kế thừa những nội dung, quy định đã khẳng định tính phù hợp,
đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn trong Luật Thủy sản 2003; các
nội dung sửa đổi, bổ sung phải đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, sự phát triển thủy sản hiện nay, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong
các quy định của Luật Thủy sản 2003.
Thứ ba, bảo đảm tính phù hợp, thống nhất
với Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành thuộc hệ thống pháp
luật Việt Nam, đặc biệt là phù hợp với các luật mới được Quốc hội thông qua.
Thứ tư, đáp ứng nhu cầu phát triển, hội
nhập ngày càng sâu rộng của Ngành thủy sản, phù hợp với các Điều ước quốc tế mà
nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc gia nhập, đồng thời vận dụng
quy định của các điều ước, tập quán quốc tế và luật pháp nước ngoài phù hợp với
nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam và xu thế, thực tiễn của hoạt động thuỷ
sản trong nước.
Thứ năm, sửa đổi, bổ
sung để đáp ứng yêu cầu về cải cách hành chính theo chỉ đạo của Chính phủ trong
thời gian qua, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp thực hiện
trong hoạt động thủy sản; phân cấp mạnh cho địa phương để
thực hiện các hoạt động quản lý thủy sản; xã hội hóa tối đa các dịch công, dần
chuyển từ nghề cá nhân dân sang nghề cá có kiểm soát, có trách nhiệm và phát
triển bền vững.
Thứ sáu, tạo khung pháp lý để chuyển từ
nghề cá nhân dân dân sang nghề cá có trách nhiệm và phát triển bền vững. Phân định
rõ chức năng quản lý nhà nước của các Bộ, ngành có liên quan đến lĩnh vực thủy
sản và phân cấp triệt để cho địa phương trong việc cấp phép, chứng nhận…đối với
các hoạt động thủy sản.
III. CÁCH TIẾP CẬN
1. Tiếp cận dựa vào hệ sinh thái, quản lý khai
thác thủy sản trên cơ sở trữ lượng nguồn lợi thủy sản
2. Bối cảnh kinh tế chính trị,
xã hội hành chính công chuyển từ “Quản trị - kiểm soát” sang “Giám sát - hỗ trợ”
cho sản xuất kinh doanh và cho mọi hoạt động của đời sống xã hội; thực hiện xã hội hóa tối đa các dịch vụ công nhằm huy động và sử dụng
nguồn lực ngoài nhà nước; thích ứng với tình hình diễn
biến phức tạp trên biển hiện nay và dự báo trong tương lai.
IV. BỐ CỤC, NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA
LUẬT:
1. Bố cục của Luật:
Luật Thủy sản năm 2017 gồm 9 chương với 105 Điều,
cụ thể:
- Chương I. Những quy định chung; gồm 10 Điều, từ
Điều 01 đến Điều 10.
- Chương II. Bảo vệ và Phát triển nguồn lợi thủy
sản; gồm 12 Điều, từ Điều 11 đến Điều 22.
- Chương III. Nuôi trồng thủy sản; gồm 04 mục với
24 Điều, từ Điều 23 đến Điều 47.
- Chương IV. Khai thác thủy sản; gồm 04 mục với
19 Điều, từ Điều 48 đến Điều 61.
- Chương V. Quản lý tàu cá, tàu công vụ thủy sản,
cảng cá và khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá; gồm 02 mục với 25 Điều, từ Điều
62 đến Điều 86.
- Chương VI. Kiểm ngư; gồm 09 Điều, từ 87 đến Điều
95.
- Chương VII. Chế biến, mua bán, xuất khẩu, nhập
khẩu thủy sản; gồm 05 Điều, từ Điều 96 đến Điều 100.
- Chương VIII. Quản lý nhà nước gồm 03 Điều, từ
Điều 101 đến Điều 102.
- Chương IX. Điều khoản thi hành; gồm 02 Điều, từ
Điều 103 đến Điều 105.
Như vậy, về cơ bản giữ nguyên tên chương của Luật
Thủy sản 2003, giảm 01 chương (09/10) và tăng 43 Điều so với Luật Thủy sản 2003
(105/62), trong đó có một số thay đổi về kết cấu như sau:
Bổ sung 01 Chương (Kiểm ngư) nhằm thiết
lập cơ sở pháp lý cao nhất cho tổ chức và hoạt động của Kiểm ngư Việt Nam;
Không quy định 02 Chương: Hợp tác quốc tế về hoạt
động thủy sản; Khen thưởng và xử lý vi phạm, lý do: Các nội dung về hợp tác quốc
tế, nội dung hợp tác về khai thác thủy sản tại nước ngoài, tàu cá nước ngoài hoạt
động trong vùng biển Việt Nam, nhập khẩu tàu cá đã được thể hiện trong Chương
Khai thác thủy sản. Đối với quy định về khen thưởng và xử lý vi phạm hiện đã được
quy định và thực hiện theo Luật Thi đua khen thưởng, Luật giải quyết Khiếu nại,
tố cáo, Luật Thanh tra và Luật Xử lý vi phạm hành chính. Như vậy, việc bỏ
Chương này nhằm đảm bảo kỹ thuật soạn thảo theo yêu cầu của Luật Ban hành văn bản
quy phạm pháp luật.
2. Phạm vi điều chỉnh và đối tượng áp dụng:
2.1. Phạm vi điều chỉnh (Điều
1): Luật này quy định về hoạt động thủy sản; quyền và nghĩa vụ của tổ chức,
cá nhân hoạt động thủy sản hoặc có liên quan đến hoạt động thủy sản; quản lý
nhà nước về thủy sản.
2.2. Đối tượng áp dụng (Điều
2): Luật này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam và tổ chức, cá nhân
nước ngoài hoạt động thủy sản hoặc có liên quan đến hoạt động thủy sản trong nội
địa, đảo, quần đảo và vùng biển Việt Nam; tổ chức, cá nhân Việt Nam khai thác
thủy sản ngoài vùng biển Việt Nam.
Như vậy, Luật Thủy sản năm 2017 quy định áp dụng
đối với cả tổ chức, cá nhân Việt Nam thực hiện hoạt động khai thác thủy sản ở
ngoài vùng biển Việt Nam, nội dung này Luật Thủy sản năm 2003 không quy định mà
giao cho Chính phủ quy định.
3. Nguyên tắc cơ bản, nội dung chính sách của
nhà nước:
3.1. Nguyên tắc cơ bản trong hoạt động thủy
sản:
Luật quy định 05 nguyên tắc trong hoạt động thủy
sản (Điều 5), cụ thể như sau:
(1) Kết hợp chặt chẽ với bảo đảm quốc phòng, an
ninh.
(2) Khai thác nguồn lợi thủy sản phải căn cứ vào
trữ lượng nguồn lợi thủy sản, gắn với bảo vệ, tái tạo và phát triển nguồn lợi
thủy sản, không làm cạn kiệt nguồn lợi thủy sản, không ảnh hưởng đến đa dạng
sinh học; tiếp cận thận trọng, dựa vào hệ sinh thái và các chỉ số khoa học
trong quản lý hoạt động thủy sản để bảo đảm phát triển bền vững.
(3) Thích ứng với biến đổi khí hậu; chủ động
phòng, chống thiên tai; bảo đảm an toàn cho người và phương tiện hoạt động thủy
sản; phòng, chống dịch bệnh thủy sản, bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường.
(4) Bảo đảm chia sẻ lợi ích, trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân trong việc hưởng lợi từ khai thác, sử dụng nguồn lợi thủy sản hoặc
hoạt động trong ngành, nghề có ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn lợi thủy sản.
(5) Đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; tuân thủ
điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Như vậy, Luật Thủy sản năm 2017 đã nhấn mạnh vào
hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong khai thác thủy sản và cách tiếp cận
trong hoạt động thủy sản. Bên cạnh đó, Luật đã khẳng định việc tuân thủ điều ước
quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
3.1. Nội dung chính sách của nhà nước:
Để thúc đẩy và khuyến khích các hoạt động trong
lĩnh vực thủy sản phát triển, tại Điều 6 Luật Thủy sản đã quy định Nhà nước có
chính sách như sau:
- Nhà nước có chính sách đầu tư
cho các hoạt động: (1) Nghiên cứu, điều tra, đánh giá, bảo
vệ, tái tạo nguồn lợi thủy sản và phục hồi hệ sinh thái thủy sinh; lưu giữ giống
gốc của loài thủy sản bản địa, đặc hữu có giá trị kinh tế, loài thủy sản nguy cấp,
quý, hiếm; (2) Xây dựng cảng cá loại I, loại II, khu neo đậu tránh trú bão cho
tàu cá; hạng mục hạ tầng thiết yếu của khu bảo tồn biển; hạ tầng vùng nuôi trồng
thủy sản tập trung, vùng sản xuất giống thủy sản tập trung; (3) Xây dựng hệ thống
theo dõi, giám sát hoạt động của tàu cá trên biển; hệ thống thông tin, cơ sở dữ
liệu quốc gia về thủy sản; hệ thống quan trắc, cảnh báo môi trường, dịch bệnh
trong nuôi trồng thủy sản.
- Trong từng thời kỳ và khả năng của
ngân sách, Nhà nước hỗ trợ cho các hoạt động: (1) Phát triển
khoa học và công nghệ, trong đó ưu tiên công nghệ cao,
công nghệ tiên tiến, công nghệ mới trong lĩnh vực tạo giống
thủy sản; sản xuất sản phẩm thủy sản quốc gia, sản phẩm
thủy sản chủ lực; sản xuất thức ăn thủy sản, sản
phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; công nghệ chế biến phụ phẩm thành thực phẩm hoặc làm nguyên liệu cho
ngành kinh tế khác; (2) Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo
nghề trong hoạt động thủy sản; (3) Thực hiện đồng quản lý trong bảo vệ
nguồn lợi thủy sản; (4) Xây dựng trung tâm nghề cá lớn;
(5) Mua bảo hiểm nuôi trồng thủy sản trên biển và hải đảo; bảo
hiểm thuyền viên; bảo hiểm thân tàu, trang thiết bị cho tàu cá khai thác thủy sản
trên biển từ vùng khơi trở ra; (6) Phát triển hoạt động thủy
sản từ vùng khơi trở ra; khôi phục sản xuất khi có sự cố
môi trường, thiên tai, dịch bệnh; hỗ trợ ngư dân trong thời
gian cấm khai thác thủy sản, chuyển đổi nghề nhằm giảm cường lực khai thác thủy
sản ven bờ; (7) Xây dựng thương hiệu sản phẩm quốc gia,
xúc tiến thương mại, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm thủy sản.
Bên cạnh các chính sách đầu tư, hỗ trợ nêu trên Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước và tổ chức, cá nhân
nước ngoài đầu tư cho hoạt động nêu trên và các hoạt động: (1) Tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị,
mô hình liên kết, hợp tác; (2) Đầu tư công nghệ tiên tiến
trong chế biến thủy sản để nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm, giảm tổn thất
sau thu hoạch; xây dựng chợ đầu mối thủy sản, quảng bá thương hiệu sản phẩm thủy
sản; (3) Đầu tư nuôi trồng thủy sản
trên biển; nuôi trồng thủy sản hữu cơ; (4) Áp dụng hệ thống
quản lý chất lượng trong sản xuất, kinh doanh thủy sản; truy xuất nguồn gốc thủy
sản.
Như vậy, Luật Thủy sản năm 2017 đã
quy định rõ các chính sách để phát triển thủy sản trong một điều Luật và phân định
rõ các mức độ của chính sách đối với các hoạt động và các đối tượng khác nhau
trong lĩnh vực thủy sản để đảm bảo chính sách phù hợp với điều kiện xã hội và
có tính khả thi.
4. Các hành vi bị nghiêm cấm:
Để đảm bảo các hoạt động thủy sản được thực hiện
có kiểm soát và có tránh nhiệm, tại Điều 7 của Luật đã quy định 13 hành vi cấm trong
hoạt động thủy sản, cụ thể như: (1) Hủy hoại nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái
thủy sinh, khu vực tập trung sinh sản, khu vực thủy sản còn non tập trung sinh
sống, nơi cư trú của các loài thủy sản; (2) Cản trở trái phép đường di cư tự
nhiên của loài thủy sản; (3) Lấn, chiếm, gây hại khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
khu bảo tồn biển; (4) Khai thác, nuôi trồng thủy sản, xây dựng công trình và hoạt
động khác ảnh hưởng đến môi trường sống, nguồn lợi thủy sản trong phân khu bảo
vệ nghiêm ngặt và phân khu phục hồi sinh thái của khu bảo tồn biển; (5) Tàu cá,
tàu biển và phương tiện thủy khác hoạt động trái phép trong phân khu bảo vệ
nghiêm ngặt của khu bảo tồn biển, trừ trường hợp bất khả kháng; (6) Khai thác
thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định (sau đây gọi là khai
thác thủy sản bất hợp pháp); mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sơ chế, chế biến
thủy sản từ khai thác thủy sản bất hợp pháp, thủy sản có tạp chất nhằm mục đích
gian lận thương mại; (7) Sử dụng chất, hóa chất cấm, chất độc, chất nổ, xung điện,
dòng điện, phương pháp, phương tiện, ngư cụ khai thác có tính hủy diệt, tận diệt
để khai thác nguồn lợi thủy sản (8) Sử dụng ngư cụ làm cản trở hoặc gây thiệt hại
cho tổ chức, cá nhân đang khai thác; thả neo, đậu tàu tại nơi có ngư cụ của tổ
chức, cá nhân đang khai thác hoặc nơi tàu cá khác đang khai thác, trừ trường hợp
bất khả kháng; (9) Vứt bỏ ngư cụ xuống vùng nước tự nhiên, trừ trường hợp bất
khả kháng; (10) Đưa tạp chất vào thủy sản nhằm mục đích gian lận thương mại;
(11) Sử dụng kháng sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong
nuôi trồng thủy sản; hóa chất, chế phẩm sinh học, vi sinh vật cấm sử dụng trong
sản xuất thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản; sử dụng
giống thủy sản nằm ngoài Danh mục loài thủy sản được phép kinh doanh tại Việt
Nam để nuôi trồng thủy sản; (12) Phá hủy, tháo dỡ gây hư hại, lấn chiếm phạm vi
công trình của cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá; xả chất thải
không đúng nơi quy định trong khu vực cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho
tàu cá; (13) Lợi dụng việc điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản làm ảnh hưởng
đến quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân khác; cung cấp, khai thác thông tin, sử dụng thông tin dữ liệu về nguồn
lợi thủy sản trái quy định của pháp luật.
So với Luật Thủy sản năm 2003, Luật Thủy sản năm
2017 đã bỏ bớt một số hành vi bị nghiêm cấm trong lĩnh vực thủy sản đã được quy
định tại các Luật khác để tránh chồng chéo, đồng thời đã quy định bổ sung các
hành vi bị nghiêm cấm mới để phù hợp với tình hình thực tiễn và yêu cầu của quốc
tế, ví dụ: hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo
quy định; hành vi đưa tạp chất vào thủy sản…
5. Những điểm mới được quy định trong Luật Thủy
sản:
5.1. Quy định chung (Chương I, từ Điều 1-
Điều 10)
5.1.1. Về đối tượng áp dụng (Điều 2)
Luật Thủy sản năm 2017 bổ sung quy định áp dụng
đối với tổ chức, cá nhân Việt Nam khai thác thủy sản ngoài
vùng biển Việt Nam. Điều này khẳng định tổ chức, cá nhân Việt Nam đi khai thác ở
ngoài vùng biển ngoài việc phải đáp ứng các quy định của pháp luật quốc tế,
pháp luật nước sở tại mà còn phải đáp ứng các quy định của pháp luật Việt Nam.
Việc bổ sung quy định này nhằm đảm bảo phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế.
5.1.2. Về giải thích thuật
ngữ (Điều 3)
Luật Thủy sản năm 2017 đã sửa đổi các khái niệm
như: Khai thác thủy sản, tàu cá... Việc sửa đổi các khái niệm này để phục vụ
công tác quản lý, phù hợp với thực tiễn nghề cá của Việt Nam và đòi hỏi của yêu
cầu quốc tế. Theo đó, hoạt động hậu cần đánh bắt thủy sản (hoạt
động thăm dò, tìm kiếm, dẫn dụ, vận chuyển nguồn lợi thủy sản đánh bắt trong
vùng nước tự nhiên) cũng được coi là hoạt động
khai thác thủy sản và phải được cấp phép trước khi hoạt động.
Bên cạnh việc sửa đổi các khái niệm nêu trên, Luật
Thủy sản đã bổ sung một số các khái niệm mới như: (1) Hoạt động hậu cần đánh bắt
thủy sản; (2) đồng quản lý; (3) tổ chức cộng đồng; (4) khu vực biển để nuôi trồng
thủy sản;m (5) tạp chất (6) giống thủy sản; (7) loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm;
(8) giống thủy sản; (9); khu vực biển để nuôi trồng thủy sản; (10) tổ chức nghề
cá khu vực…Việc quy định bổ sung giải thích các thuật ngữ nêu trên để tạo điều
kiện thuận lợi trong quá trình quản lý, triển khai thực hiện và áp dụng của các
đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật và đảm bảo tính thống nhất, phù hợp với hệ
thống pháp luật hiện tại của Việt Nam và yêu cầu của pháp luật quốc tế.
Mặt khác, Luật Thủy sản năm 2017 đã bỏ các khái
niệm: Ngư trường, Giống thủy sản mới, cá nhân. Việc bỏ các khái niệm này để phù
hợp với việc thay đổi cách thức quản lý trong sản xuất giống thủy sản, quản lý
hoạt động khai thác và phù hợp với tinh thần của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật (các nội dung đã được quy định tại các văn bản Luật khác thì không nhắc
lại ở Luật chuyên ngành)
5.1.3. Về hành vi bị nghiêm cấm (Điều 7)
Luật Thủy sản năm 2017 quy định một số hành vi bị
nghiêm cấm mới so với Luật Thủy sản năm 2003: (1) khai thác thủy
sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định; mua,
bán, vận chuyển, tàng trữ, sơ chế, chế biến thủy sản từ khai thác thủy sản bất
hợp pháp, thủy sản có tạp chất nhằm mục đích gian lận thương mại; đưa tạp chất vào thủy sản nhằm mục đích gian lận thương mại; (2)
lợi dụng việc điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản làm ảnh hưởng
đến quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân khác; cung cấp, khai thác thông tin, sử dụng thông tin dữ liệu về nguồn
lợi thủy sản trái quy định của pháp luật; (3) đưa tạp chất
vào thủy sản nhằm mục đích gian lận thương mại; (4) Sử dụng
kháng
sinh, thuốc thú y, thuốc bảo vệ thực vật cấm sử dụng trong nuôi trồng thủy sản;
hóa chất, chế phẩm sinh học, vi sinh vật cấm sử dụng
trong sản xuất thức ăn thủy sản, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy sản;
sử dụng giống thủy sản nằm ngoài Danh mục loài thủy sản được phép kinh doanh tại
Việt Nam để nuôi trồng thủy sản...
Việc quy định bổ sung các hành vi cấm để nhằm
phù hợp với tình hình sản xuất kinh doanh hiện nay và phù hợp với yêu cầu của
quốc tế trong việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản, chống khai thác bất hợp pháp,
không báo cáo và không theo quy định.
5.1.4. Về hợp tác quốc tế ( Điều 8)
Luật quy định về hợp tác quốc tế trong bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật trong vùng biển quốc tế, loài cá
di cư theo quy định của tổ chức nghề cá khu vực và Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; phối hợp kiểm tra, xử
lý hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam
theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Việc bổ sung quy định này nhằm phù hợp với pháp
luật quốc tế, yêu cầu và khuyến nghị của Ủy ban Châu Âu và nhằm đảm bảo tạo cơ
sở pháp lý đối với việc ngăn chặn và xử lý hành vi khai thác bất hợp pháp,
không báo cáo, không theo quy định trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam đặc biệt là
việc nhập khẩu thủy sản bất hợp pháp vào thị trường Việt Nam hoặc coi Việt Nam
là nơi chung chuyển của thủy sản bất hợp pháp.
Luật Thủy sản năm 2003 mới đề cập đến hợp tác quốc
tế trong lĩnh vực khai thác thủy sản. Tuy nhiên, Luật Thủy sản năm 2017 đã quy
định về hợp tác quốc tế của các hoạt động thủy sản trong lĩnh vực thủy sản
trong một điều luật để đảm bảo tính thống nhất, tập trung dễ theo dõi.
5.1.5. Về cơ sở
dữ liệu quốc gia về thủy sản (Điều 9)
Luật Thủy sản năm 2003 không quy định về nội
dung này. Để phù hợp với chỉ đạo của Chính phủ trong quản lý các hoạt động
chuyên ngành và tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp cũng như thực hiện chủ
trương xây dựng Chính phủ điện tử. Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản được xây dựng thống nhất từ trung ương đến địa phương; được chuẩn hóa để
cập nhật, khai thác và quản lý bằng công nghệ thông tin.
Quy định như vậy để tiến tới quản lý thủy sản
theo hướng hiện đại tạo thuận lợi cho quá trình quản lý, theo dõi hoạt động thủy
sản, việc chuyển tải thông tin giữa Trung ương và địa phương được thuận lợi, cải
cách thủ tục hành chính, công khai, minh bạch các thông tin phục vụ cho quá
trình quản lý, kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước và tạo thuận lợi cho người
dân, doanh nghiệp tham gia vào hoạt động thủy sản.
5.1.6. Về quy định đồng quản lý trong bảo
vệ nguồn lợi thủy sản (Điều 10).
Luật Thủy sản năm 2003 không quy định về nội
dung này mà chỉ quy định mang tính chất định hướng quản lý hoạt động thủy sản dựa
vào cộng đồng. Từ kinh nghiệm của các mô hình thí điểm đã được thực hiện trong
thời gian qua về đồng quản trong hoạt động thủy sản và trên sơ sở kinh nghiệm
quốc tế, Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định khẳng định:
(1) khái niệm về đồng quản lý, tổ chức cộng đồng
tham gia đồng quản lý trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
(2) địa vị pháp lý của tổ chức cộng đồng là tổ
chức có tư cách pháp nhân hoặc không có tư cách pháp nhân;
(3) điều kiện tham gia đồng quản lý;
(4) cơ quan có thẩm quyền công nhận
và giao quyền quản lý cho tổ chức cộng đồng;
(5) nội dung của Quyết định công nhận và giao
quyền quản lý cho cộng đồng;
(6) quyền và trách nhiệm của cơ quan có thẩm quyền
trong thực hiện đồng quản lý;
(7) quyền và trách nhiệm của tổ chức cộng đồng;
(8) các trường hợp thu hồi quyết định công nhận
và giao quyền quản lý bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Quy định này nhằm tạo cơ sở pháp lý cho Nhà nước
thực hiện chia sẻ, giao quyền quản lý cho tổ chức cộng đồng trong bảo vệ nguồn
lợi thủy sản, khuyến khích người dân, Hội, Hiệp hội …tham gia cùng với chính
quyền cơ sở quản lý hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Đồng thời, quy định
này nhằm nâng cao ý thức và trách nhiệm của người dân trong hoạt động bảo vệ
nguồn lợi thủy sản, từng bước thực hiện chủ trương xã hội hóa, tăng cường vai
trò, trách nhiệm của cộng đồng trong quản lý hoạt động bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Thực hiện đồng quản lý là giải pháp hữu hiệu giảm
xung đột lợi ích trong cộng đồng và góp phần sử dụng nguồn lợi thủy sản một
cách bền vững. Bên cạnh đó còn giảm tải áp lực đối với các cơ quan quản lý nhà
nước chuyên ngành bởi đã huy động được người dân tham gia giám sát lẫn nhau
trong hoạt động thủy sản, các vi phạm sẽ được phát hiện và ngăn chặn kịp thời.
5.2. Quy định bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản (Chương II, Điều 11- Điều 22)
5.2.1. Quy định về quy hoạch về bảo vệ và
khai thác nguồn lợi thủy sản (Điều 11).
Nguồn lợi thủy sản là một loại tài nguyên có khả
năng tái tạo, do đó để quản lý bền vững nguồn lợi thủy sản, Luật quy định về
quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản, đây là một trong những căn cứ
để quản lý nguồn lợi thủy sản theo hướng bền vững.
Theo đó, Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định về:
(1) căn cứ lập quy hoạch; (2) nội dung quy hoạch; (3) việc lập, phê duyệt, điều
chỉnh, công bố quy hoạch. Các nội dung khác sẽ thực hiện theo Luật Quy hoạch.
Quy định này tạo cơ sở pháp lý cho việc quản lý
trữ lượng nguồn lợi thủy sản, thiết lập các khu vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản,
cân đối giữa cường lực khai thác với trữ lượng nguồn lợi thủy sản đã điều tra,
đánh giá được và nhằm phù hợp với quy định của Luật Quy hoạch
5.2.2. Về điều tra đánh giá nguồn lợi thủy
sản (Điều 12).
Luật Thủy sản năm 2017 quy định: kết quả điều
tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản là căn cứ quan trọng để quản lý hoạt động khai
thác thủy sản theo hạn ngạch, bảo đảm khai thác thủy sản bền vững trên cơ sở trữ
lượng nguồn lợi thủy sản hiện có trong vùng biển Việt Nam.Trên cơ sở đó, Luật
khẳng định:
(1) Mục đích điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản;
(2) Chương trình điều tra (tổng thể là 05 năm một
lần, thương phẩm, chuyên đề);
(3) trách nhiệm thực hiện điều tra ( Bộ
NN&PTNT thực hiện điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản tổng thể 05 năm/lần,
điều tra, đánh giá theo chuyên đề; UBND cấp tỉnh tổ chức điều tra đánh giá nguồn
lợi thủy sản theo chuyên đề và nghề cá thương phẩm hàng năm).
Luật quy định: định kỳ 5 năm phải thực hiện điều
tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của các loài thủy sản, căn
cứ vào đó cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền xác định hạn ngạch giấy phép
khai thác cấp cho tàu cá; sản lượng thủy sản cho phép khai thác đối với một số
đối tượng như cá ngừ, nhóm thủy sản có tính kết đàn… nhằm bảo vệ nguồn lợi thủy
sản và hoạt động khai thác có hiệu quả và phát triển bền vững.
5.2.3. Khu bảo tồn biển (Điều 15, 16)
Để giải quyết sự chống chéo về chức năng nhiệm vụ
giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và môi trường
trong quản lý khu bảo tồn biển. Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định và phân định
rõ trách nhiệm quản lý nhà nước của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn về bảo
tồn biển và trách nhiệm quản lý tổng thể của Bộ Tài nguyên và môi trường.
Luật đã khẳng định:
(1) Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn trình Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập
khu bảo tồn biển có diện tích thuộc địa bàn từ hai tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương trở lên;
(2) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh trình
Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập khu bảo tồn biển có diện tích thuộc địa
bàn quản lý sau khi có ý kiến đồng ý bằng văn bản của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn.
Theo đó, Luật đã khẳng định Danh mục
Loài thủy sản nguy cấp quý, hiếm là một trong các tiêu chí để xác lập vườn quốc
gia và khu bảo tồn loài sinh cảnh cấp quốc gia; loài thủy sản đặc hữu hoặc loài thủy sản bản địa có giá trị đặc biệt về khoa
học, kinh tế là một trong các căn cứ để thành lập khu bảo tồn loài – sinh cảnh
cấp tỉnh.
5.2.4. Khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản ( Điều
17)
Luật Thủy sản năm 2017 không
quy định về khu bảo tồn nguồn lợi thủy sản nội địa như Luật Thủy sản năm 2003 để
tránh chồng chéo với Luật Đa dạng sinh học. Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định
về khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và khẳng định khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản là
nơi cư trú, tập trung sinh sản, nơi thủy sản còn non tập trung sinh sống thường
xuyên hoặc theo mùa của ít nhất một loài thủy sản thuộc Danh
mục loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm hoặc loài thủy sản
bản địa hoặc loài thủy sản di cư xuyên biên giới.
Luật Thủy sản năm 2017:
(1) Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn tổ chức điều tra, xác định, ban hành danh mục khu bảo vệ nguồn lợi thủy
sản trên phạm vi cả nước;
(2) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ
chức điều tra, xác định bổ sung khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa bàn, báo
cáo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xem xét, bổ sung danh mục khu bảo vệ
nguồn lợi thủy sản và tổ chức quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản trên địa
bàn.
Theo quy định của Luật Thủy sản
năm 2017, việc quản lý khu bảo vệ nguồn lợi thủy sản được thực hiện linh hoạt
có thể giao cho tổ chức cộng đồng thực hiện đồng quản lý tại khu vực đó để tiến
hành quản lý, việc này vừa huy động được nguồn lực từ xã hội vừa nâng cao nhận
thức của người dân và đồng thời giảm tải cho cơ quan quản lý nhà nước trong
công tác bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
5.2.5. Bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong rừng
đặc rụng, rừng phòng hộ và khu bảo tồn đất ngập nước ( Điều 18, 19)
Đây là nội dung mới so với Luật Thủy
sản năm 2003, quy định này nhằm đảm bảo nguồn lợi thủy sản được bảo vệ trên phạm
vi rộng khắp và các lĩnh vực khác có liên quan bên cạnh việc thực thi nhiệm vụ
chuyên ngành phải thực hiện bảo vệ nguồn lợi thủy sản nếu tại khu vực đó có nguồn
lợi thủy sản sinh sống.
Luật Thủy sản năm 2017 quy định:
(1) Tổ chức được giao quản lý rừng đặc rụng, rừng
phòng hộ và khu bảo tồn đất ngập nước phải bố trí cán bộ có chuyên môn về thủy
sản để làm công tác về bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
(2) Cơ quan quản lý nhà nước về thủy
sản có trách nhiệm hướng dẫn, kiểm tra công tác quản lý nguồn lợi thủy sản tại
các khu bảo tồn này.
Như vậy, nguồn lợi thủy sản được bảo vệ rộng khắp
và không phân biệt khu vực đó là do cơ quan quản lý về thủy sản hay cơ quan thuộc
lĩnh vực hoặc bộ, ngành khác hoặc tổ chức cộng đồng được giao quản lý. Theo đó,
khẳng định việc bảo vệ nguồn lợi thủy sản là trách nhiệm của mọi đối tượng.
5.2.6. Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi
thủy sản ( Điều 21) và Quỹ cộng đồng (Điều 22).
Luật Thủy sản năm 2017 sửa tên Quỹ Tái tạo nguồn
lợi thủy sản thành Quỹ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản và đã xác định
rõ quỹ gồm Quỹ trung ương và cấp tỉnh.
Luật quy định rõ:
(1) Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn quyết định thành lập quỹ ở trung ương;
(2) Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
quyết định thành lập quỹ cấp tỉnh căn cứ nhu cầu và nguồn lực huy động của địa
phương. Như vậy, với quỹ cấp tỉnh không bắt buộc phải thành lập ở toàn bộ 63 tỉnh,
thành phố trực thuộc Trung.
Luật cũng đã xác định rõ nguyên tắc
hoạt động của quỹ không vì mục đích lợi nhuận; hỗ trợ cho các chương trình, dự
án hoặc các hoạt động phi dự án về bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản mà
ngân sách nhà nước chưa đầu tư hoặc chưa đáp ứng yêu cầu đầu tư; bảo đảm công
khai, minh bạch, tiết kiệm, hiệu quả, sử dụng đúng mục đích và phù hợp với quy
định của pháp luật.
Luật quy định khuyến khích thành lập
Quỹ cộng đồng để hỗ trợ bảo vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản tại cộng đồng.
Tổ chức và hoạt động của quỹ cộng đồng thực hiện theo quy định của pháp luật về
quỹ xã hội.
Quy định này để tránh chồng chéo với
các quy định của các Luật hiện hành như Luật Phí, lệ phí; Luật Ngân sách.
5.3. Nuôi trồng thủy sản (Chương III, từ
Điều 23 đến Điều 47).
Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định rất chi tiết
các hoạt động trong nuôi trồng thủy sản (quản lý giống thủy sản, thức ăn và sản
phẩm xử lý môi trường trong nuôi trồng thủy sản, điều kiện nuôi, giao khu vực
biển để nuôi trồng thủy sản, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham gia hoạt
động nuôi trồng thủy sản.
5.3.1. Quản lý giống thủy sản
(mục 1, từ điều 23 đến điều 30)
Xác định rõ tầm quan trọng của giống thủy sản
trong việc quyết định hiệu quả nuôi trồng thủy sản, Luật Thủy sản năm 2017 đã
quy định chặt về điều kiện của cơ sở sản xuất giống. Theo đó, tổ chức cá nhân
phải được chứng nhận đủ điều kiện trước khi tiến hành sản xuất và chỉ được sản
xuất giống thủy sản có tên trong Danh mục loài thủy sản được phép kinh doanh tại
Việt Nam do Chính phủ ban hành.
Luật
Thủy sản năm 2017 khẳng định Giống thủy sản trước khi
lưu thông trên thị trường phải đáp ứng các
yêu cầu như sau:
(1) Thuộc Danh mục loài thủy sản được
phép kinh doanh tại Việt Nam;
(2) Được công bố tiêu chuẩn áp dụng và công bố hợp quy theo quy
định;
(3)
Có chất lượng phù hợp tiêu chuẩn công bố áp dụng;
(4) Được kiểm
dịch theo quy định của pháp luật.
Luật
quy định rõ điều kiện cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, các trường hợp
phải khảo nghiệm, kiểm định giống thủy sản, nhập khẩu, xuất khẩu giống giống thủy
sản, quyền và nghĩa vụ của tổ chức cá nhân sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản,
yêu cầu ghi nhãn và hồ sơ vận chuyển giống thủy sản.
5.3.2. Quản lý thức ăn, sản phẩm xử lý môi
trường trong nuôi trồng thủy sản (mục 2 từ điều 31 đến điều 37)
Để tạo điều kiện thuận lợi cũng như thông thoáng cho doanh
nghiệp khi tham gia kinh doanh thức ăn, sản phẩm xử lý môi trường nuôi trồng thủy
sản Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định theo hướng quản lý hệ thống; thực hiện
kiểm soát đầu vào từ điều kiện cơ sở. Theo đó, tổ chức, cá nhân khi tham gia
vào hoạt động kinh doanh các sản phẩm này phải được chứng nhận cơ sở đủ điều kiện
trước khi hoạt động.
Đối với sản phẩm, để nâng cao trách nhiệm của
tổ chức, cá nhân và tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động kinh doanh trong
lĩnh vực này, Luật đã quy định theo hướng: Tổ chức cá nhân báo cáo tình hình sản
xuất, kinh doanh và thực hiện cập nhật thông tin về sản phẩm vào cơ sở dữ liệu
quốc gia về thủy sản và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về các thông tin,
chất lượng của sản phẩm.
5.3.3 Về nuôi trồng thủy sản (mục 3,4 từ
điều 30 đến điều 47)
Luật Thủy sản năm 2017 đã quy định chi tiết về
điều kiện nuôi trồng thủy sản và quy định quản lý đối với các đối tượng nuôi,
hình thức nuôi và mục đích của việc nuôi trồng thủy sản để không bỏ sót đối tượng
cần quản lý. Theo đó, Luật Thủy sản năm 2017 quy định áp dụng đối với cả các đối
tượng nuôi làm cảnh, giải trí, mỹ nghệ…
Luật khẳng định rõ: Nuôi trồng thủy sản bằng lồng,
bè hoặc thủy sản nuôi chủ lực phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về thủy
sản cấp tỉnh để cơ quan quản lý về thủy sản có định hướng đối với hoạt động
nuôi trồng thủy sản của người dân đạt hiệu quả và đặc biệt tạo thuận lợi trong
hoạt động thực hiện các chính sách hỗ trợ nếu có thiên tai, dịch bệnh.
Bên cạnh đó, để tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân sản xuất sản phẩm phục vụ cho xuất khẩu, Luật quy định cơ quan nhà nước có
thẩm quyền sẽ cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện đối với cơ sở nuôi trồng thủy nếu
chủ cơ sở yêu cầu nếu nước nhập khẩu yêu cầu hoặc cơ sở tiêu thụ trong nước yêu
cầu.
Luật Thủy sản năm 2017 quy định việc nuôi trồng
thủy sản trên biển phải được cơ quan có thẩm quyền cấp phép. Đây là điểm rất mới
so với Luật Thủy sản năm 2003 để phân định rõ thẩm quyền của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường trong quản lý tài nguyên
và quản lý chuyên ngành. Theo đó, việc cấp phép nuôi trồng thủy sản trên biển sẽ
do cơ quan quản lý về thủy sản thực hiện còn việc giao khu vực biển để nuôi trồng
thủy sản sẽ do cơ quản lý về tài nguyên và môi trường thực hiện.
Luật Thủy sản năm 2017 quy định rõ thẩm quyền cấp
phép dự án nuôi trồng thủy sản và thẩm quyền giao khu vực biển, quyền và nghĩa
vụ của tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản và các
trường hợp thu hồi khu vực biển. Luật cũng quy định về việc trưng dụng khu vực
đã giao trong các trường hợp để thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh hoặc trong tình trạng khẩn cấp; sự cố môi trường; phòng, chống thiên tai.
Việc trưng dụng khu vực biển thực hiện theo quy định của pháp luật về trưng
mua, trưng dụng tài sản.
Về thời hạn giao khu vực biển được là 30 năm và
được gia hạn tối đa là 20 năm, thời hạn này dài hơn so với quy định tại Luật Thủy
sản năm 2003 để phù hợp với pháp luật về biển và tạo điều kiện cho tổ chức, cá
nhân đầu tư vào nuôi trồng thủy sản trên biển.
5.4. Về Khai thác thủy sản (Chương IV, từ
Điều 48 đến Điều 62)
5.4.1. Khai thác thủy sản trong nội địa và
trong vùng biển Việt Nam
Thứ nhất, Luật khẳng định vùng biển Việt
Nam gồm có Vùng bờ, Vùng lộng và Vùng khơi. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn quản lý khai thác thủy sản ở Vùng khơi, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quản lý
khai thác ở Vùng bờ, Vùng lộng và nội địa.
Thứ hai, Luật Thủy sản năm 2017 quy định
tổ chức, cá nhân sử dụng tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 06 mét trở lên phải được
cơ quan có thẩm quyền cấp phép khác với Luật Thủy sản năm 2003 quy định theo
hai tiêu chí và công suất và chiều dài đường nước thiết kế của tàu.
Thứ ba, Luật Thủy sản năm 2017 quy định về
hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản, sản lượng khai cho phép khai thác đối với
một số loài cá di cư xa và loài thủy sản có tập tính kết đàn. Đây là bước tiến
mới so với Luật Thủy sản năm 2003 để nhằm phù hợp với pháp luật quốc tế về bảo
vệ, bảo tồn nguồn lợi thủy sản. Điều này thể hiện rõ sự thay đổi trong cách tiếp
cận xây dựng Luật là tiếp cận dựa vào hệ sinh thái. Theo đó:
(1) Luật quy định rõ căn cứ vào kết quả điều
tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản, cụ thể là căn cứ vào trữ lượng, sản lượng cho
phép khai thác bền vững để xác định hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản. Đồng
thời Luật quy định phân cấp triệt để việc cấp phép khai thác thủy sản cho Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh;
(2) Luật khẳng định Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn xác định, giao hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản theo số lượng tàu cá và hạn ngạch sản lượng cho phép khai thác theo
loài của một số loài di cư và loài có tập tính kết đàn tại vùng khơi cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh xác định hạn ngạch giấy phép khai thác thủy sản và sản lượng
cho phép khai thác theo loài tại vùng ven bờ và vùng lộng thuộc phạm vi quản
lý. Như vậy, thực hiện quản lý theo hạn ngạch là nhằm kiểm soát cường lực khai
thác, quản lý và phát triển đội tàu khai thác bền vững;
(3) Hạn ngạch giấy phép được công
bố, điều chỉnh 60 tháng một lần. Trong trường hợp có biến động về nguồn lợi
trên cơ sở kết quả điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản theo chuyên đề, nghề
cá thương phẩm hằng năm, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh điều chỉnh sản lượng cho phép khai thác theo loài.
5.4.2. Khai thác thủy sản ở
ngoài vùng biển Việt Nam
Luật quy định cụ thể các điều kiện
để tổ chức, cá nhân Việt Nam đi khai thác ở ngoài vùng biển Việt Nam
Theo đó, tổ chức, cá nhân khai
thác thủy sản ngoài vùng biển Việt Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn chấp thuận đối với tàu cá khai thác thủy sản tại vùng biển của quốc gia,
vùng lãnh thổ khác hoặc cấp phép đối với khai thác thủy sản tại vùng biển thuộc
quyền quản lý của tổ chức nghề cá khu vực khi đáp ứng các điều kiện:
(1) Được cơ quan có thẩm quyền của
quốc gia, vùng lãnh thổ có biển cho phép hoặc được tổ chức quản lý nghề cá khu
vực cấp hạn ngạch cho Việt Nam;
(2) Tàu cá có đủ điều kiện hoạt động;
đã được đăng ký, có Giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá còn hiệu lực ít nhất
06 tháng; có đủ trang thiết bị an toàn cho người và tàu cá; thiết bị giám sát
hành trình, thông tin liên lạc phù hợp;
(3) Thuyền trưởng, máy trưởng phải
có bằng hoặc chứng chỉ do cơ quan có thẩm quyền cấp; thuyền viên và người làm
việc trên tàu cá phải có bảo hiểm, hộ chiếu; trên tàu hoặc một nhóm tàu phải có
ít nhất một người biết sử dụng tiếng Anh hoặc ngôn ngữ thông dụng của quốc gia,
vùng lãnh thổ mà tàu cá đến khai thác; không thuộc trường hợp cấm xuất cảnh
theo quy định của pháp luật;
(4) Đáp ứng điều
kiện khác theo quy định của tổ chức nghề cá khu vực, quốc
gia và vùng lãnh thổ khác.
Như vậy, Luật nhấn mạnh việc phải
có thiết bị giám sát hành trình, thông tin liên lạc của tàu cá và khi khai thác
ở khu vực biển thuộc thẩm quyền quản lý của tổ chức nghề cá khu vực phải được
Cơ quan có thẩm quyền Việt Nam cấp phép trên cơ sở hạn ngạch của tổ chức nghề
cá khu vực đó cấp cho Chính phủ Việt Nam. Đây là những điểm mới so với pháp luật
hiện tại.
5.4.3. Về hoạt động thủy sản
của tàu nước ngoài trong vùng biển Việt Nam
Luật quy định cụ thể về điều kiện đối với tổ chức,
cá nhân có tàu hoạt động trong vùng biển Việt Nam và phân định rõ điều kiện đối
với tàu hoạt động khai thác và tàu hoạt động nghiên cứu khoa học, vận chuyển thủy
sản…Bên cạnh những điều kiện chung sẽ có những điều kiện đặc thù cho từng loại
hoạt động để đảm bảo tính phù hợp với thực tiễn.
Luật khẳng định tàu khai thác thủy
sản chỉ được phép tiêu thụ sản phẩm tại Việt Nam, trừ trường hợp có hợp đồng xuất
khẩu.
Luật cũng khẳng định tổ chức, cá
nhân nước ngoài có tàu hoạt động thủy sản trong vùng biển Việt Nam có nghĩa vụ
treo cờ theo quy định của Chính phủ. Đây là quy định mới so với pháp luật hiện
hành.
Bên cạnh đó, Luật quy định chi tiết
đối với giám sát viên trên tàu nước ngoài hoạt động trong vùng biển Việt Nam.
5.4.4. Về khai thác bất hợp
pháp, không báo cáo và không theo quy định
Theo Luật Thủy sản năm 2017 thì 14
hành vi được coi là hành vi khai thác bất hợp pháp, không báo cáo và không theo
quy định, cụ thể:
(1) Khai
thác thủy sản không có giấy phép;
(2) Khai thác thủy sản trong vùng
cấm khai thác, trong thời gian cấm khai thác; khai thác, vận chuyển thủy sản cấm
khai thác; khai thác loài thủy sản có kích thước nhỏ hơn quy định; sử dụng nghề,
ngư cụ khai thác bị cấm;
(3) Khai thác thủy sản trái phép
loài thuộc Danh mục loài thủy sản nguy cấp, quý, hiếm;
(4) Khai thác thủy sản trái phép
trong vùng biển thuộc quyền quản lý của tổ chức quản lý nghề cá khu vực, quốc
gia và vùng lãnh thổ khác;
(5) Khai thác thủy sản vượt sản lượng
theo loài, khai thác sai vùng, quá hạn ghi trong giấy phép;
(6) Che giấu, giả mạo hoặc hủy chứng
cứ vi phạm quy định liên quan đến khai thác, bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
(7) Ngăn cản, chống đối người có
thẩm quyền thực hiện kiểm tra, giám sát sự tuân thủ đối với các quy định về
khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản;
(8) Chuyển tải hoặc hỗ trợ cho tàu
đã được xác định có hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp, trừ trường hợp bất
khả kháng;
(9) Không
trang bị hoặc trang bị không đầy đủ hoặc không vận hành thiết bị thông tin liên
lạc và thiết bị giám sát hành trình theo quy định;
(10) Không có
Giấy chứng nhận cơ sở đủ điều kiện an toàn thực phẩm theo quy định;
(11) Tạm nhập, tái xuất, tạm xuất,
tái nhập, chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam thủy sản, sản phẩm thủy sản
có nguồn gốc từ khai thác thủy sản bất hợp pháp;
(12) Không
ghi, ghi không đầy đủ, không đúng, không nộp nhật ký khai thác thủy sản, không báo cáo theo quy định;
(13) Sử dụng tàu cá không quốc tịch
hoặc mang quốc tịch của quốc gia không phải là thành viên để khai thác thủy sản
trái phép trong vùng biển quốc tế thuộc thẩm quyền quản lý của tổ chức quản lý
nghề cá khu vực;
(14) Sử dụng tàu cá để khai thác
thủy sản không theo quy định về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản trong
vùng biển quốc tế không thuộc thẩm quyền quản lý của tổ chức quản lý nghề cá
khu vực.
Như vậy, đây là những quy định rất
mới so với Luật Thủy sản năm 2003 để nhằm nội luật hóa các khuyến nghị của Liên
minh Châu Âu (EC) và để quản lý nghề khai thác thủy sản một cách bền vững và
thúc đẩy ngư dân khai thủy sản có trách nhiệm.
Bên cạnh đó, Luật Thủy sản năm 2017 quy định Bộ trưởng Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn quy định việc công bố danh sách tàu cá
khai thác thủy sản bất hợp pháp. Theo đó, tàu cá
có tên trong danh sách khai thác thủy sản bất hợp pháp sẽ được công khai tên trên
các phương tiện thông tin đại chúng.
Luật đã quy định về hoạt động xác
nhận, chứng nhận nguồn gốc thủy sản từ khai thác. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam xác nhận nguyên liệu, chứng nhận sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ
khai thác tại vùng biển Việt Nam không vi phạm quy định khai thác bất hợp pháp
cho tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu; Nguyên liệu thủy sản nhập khẩu được cơ
quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận có nguồn gốc từ khai thác
không vi phạm quy định khai thác thủy sản bất hợp pháp khi có yêu cầu của tổ chức,
cá nhân nhập khẩu; Sản phẩm thủy sản xuất khẩu có nguồn gốc từ nguyên liệu thủy
sản nhập khẩu được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác nhận khi có yêu cầu của
tổ chức, cá nhân xuất khẩu trên cơ sở nguyên liệu sản xuất sản phẩm thủy sản đó được cơ quan có thẩm quyền của nước xuất
khẩu chứng nhận có nguồn gốc không vi phạm quy định khai thác thủy sản bất hợp
pháp.
5.5. Về Quản lý tàu
cá, tàu công vụ thủy sản, cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá (Chương
V Điều 62 đến Điều 86)
Thứ nhất, Luật khẳng
định chuyển quản lý tàu cá từ công suất (CV) sang quản lý theo chiều dài lớn nhất
của tàu. Tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 6 mét trở lên tham gia khai thác thủy
sản phải có giấy phép, tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 12 mét trở lên phải thực
hiện đăng kiểm; tàu cá có chiều dài lớn nhất từ 12 mét trở lên phải thực hiện lắp
thiết bị hành trình theo quy định của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.
Thứ hai, đối với cơ sở
đóng mới cải hoán, tàu cá, Luật quy định điều kiện của cơ sở và phải được cơ
quan có thẩm quyền chứng nhận đủ điều kiện trước khi hoạt động. Khi đóng mới, cải
hoán tàu cá phải có văn bản chấp thuận của cơ quan có thẩm quyền.
Bên cạnh đó Luật khẳng định Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh công khai hạn ngạch Giấy phép khai thác thủy sản, số lượng Giấy
phép khai thác thủy sản trên biển được cấp mới của địa phương; cấp văn bản
chấp thuận đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu cá trên biển căn cứ vào hạn ngạch
Giấy phép khai thác thủy sản; xây dựng, công khai tiêu chí đặc thù của địa
phương và quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận đóng mới, cải
hoán, thuê, mua tàu cá trên biển; quy định về đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu
cá hoạt động trong nội địa thuộc phạm vi quản lý
Thứ ba, Luật quy định
về xã hội hóa đăng kiểm tàu cá. Đây là quy định mới só với Luật Thủy sản năm
2003 để nhằm huy động các nguồn lực từ xã hội cho hoạt động đăng kiểm tàu cá và
giảm tải áp lực cho cơ quan quản lý nhà nước đồng thời tạo điều kiện thuận lợi
cho người dân và doanh nghiệp, tực hiện chủ trương của Đảng và nhà nước hiện
nay về việc tăng cường xã hội hóa dịch vụ công.
Luật quy định điều kiện của
cơ sở thực hiện đăng kiểm tàu cá và phải được cơ quan quản lý nhà nước thực hiện
chứng nhận đủ điều kiện trước khi tham gia hoạt động.
Luật đã quy định rõ về quyền và nghĩa vụ của cơ
sở đăng kiểm và đăng kiểm viên tàu cá, trong đó khẳng định:
(1) Người đứng đầu cơ sở đăng kiểm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về kết quả đăng
kiểm, cấp giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu;
(2) đăng kiểm viên chịu trách nhiệm về kết quả kiểm tra, phân cấp, cấp
giấy chứng nhận an toàn kỹ thuật tàu cá…
Thứ tư, đối cới cảng cá,
khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá:
Luật khẳng định việc xây dựng
quy hoạch hệ thống cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá. Bên cạnh đó,
Luật quy định rõ trách nhiệm của tổ chức quản lý cảng cá trong việc xác nhận
nguồn gốc thủy sản từ khai thác (bố trí địa điểm làm việc cho các lực lượng chức
năng thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước tại cảng; thu nhận nhật ký khai thác,
báo cáo khai thác; xác nhận nguồn gốc thủy sản từ khai thác…)
5.6. Quy định về Kiểm ngư (Chương VI từ Điều
87 đến Điều 95)
Đây là một chương mới được quy định trong Luật
và Luật khẳng định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, hệ thống các điều kiện đảm bảo
cho hoạt động Kiểm ngư…, cụ thể:
(1) Kiểm ngư là lực lượng chuyên
trách của Nhà nước, thực hiện chức
năng bảo đảm thực thi pháp luật về khai thác và bảo vệ nguồn lợi thủy sản của Việt Nam và điều ước quốc tế
có liên quan mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
(2) Hệ thống Kiểm ngư bao gồm
Kiểm ngư trung ương và kiểm ngư tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có biển.
Kiểm ngư tỉnh được tổ chức trên cơ sở yêu cầu bảo vệ nguồn lợi thủy sản và nguồn
lực của địa phương.
(3) Nhiệm vụ và quyền hạn của Kiểm ngư; nhiệm vụ
và quyền hạn của Kiểm ngư viên; Thuyền viên tàu kiểm ngư; cộng tác viên kiểm
ngư; phương tiện, trang thiết bị, trang phục của kiểm ngư; nguồn kinh phí bảo đảm
hoạt động kiểm ngư; điều động, huy động lực lượng, phương tiện
trong hoạt động kiểm ngư.
(4) Đối với nguồn kinh phí hoạt động
của Kiểm ngư, Luật khẳng định:
- Kinh phí đầu tư và kinh phí hoạt động
của Kiểm ngư được bố trí từ ngân sách nhà nước theo phân cấp ngân sách nhà nước
hiện hành và các nguồn kinh phí khác theo quy định của pháp luật.
- Tiền thu được từ xử phạt vi
phạm hành chính của Kiểm ngư được nộp vào ngân sách Nhà nước.
- Cơ quan Kiểm ngư được cấp lại một
phần kinh phí thu được từ xử phạt vi phạm hành chính để phục vụ cho hoạt động
kiểm ngư.
Đây là quy định nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho cơ quan Kiểm ngư trong việc tạo ngân sách cho hoạt động của lực
lượng thúc đẩy và đảm bảo hoạt động Kiểm ngư được duy trì và hoạt động có hiệu
quả.
5.7. Nội luật hóa các
nội dung liên quan đến chống đánh bắt bất hợp pháp, không báo cáo, không theo
quy định (IUU) trong đó có khuyến nghị của Ủy ban Châu âu (EC)
Nội dung này được quy định rải rác
trong các Điều và các chương của Luật như: Một số quy định được sửa đổi dựa
trên các nguyên tắc của Công ước Luật biển 1982, Hiệp định biện pháp quốc gia
có cảng của FAO, Hiệp định đàn cá di cư của Liên Hợp quốc, Bộ luật nghề cá có
trách nhiệm của FAO, Kế hoạch hành động quốc tế của FAO về khai thác IUU, Hướng
dẫn của FAO về thực hiện trách nhiệm quốc gia treo cờ, đặc biệt tập trung vào 9
khuyến nghị của EC, các khuyến nghị đó đã đã nghiên cứu, thể hiện trong Luật Thủy
sản năm 2017 như sau:
Thứ nhất, tại khoản 1 Điều 64 của Luật khẳng định 14 hành vi được coi là khai thác thủy sản bất hợp
pháp bao gồm: (1) Khai thác thủy sản không có giấy phép; (2) Khai
thác thủy sản trong vùng cấm khai thác, trong thời gian cấm khai thác; khai
thác, vận chuyển thủy sản cấm khai thác; khai thác loài thủy sản có kích thước
nhỏ hơn quy định; sử dụng nghề, ngư cụ khai thác bị cấm…
Thứ hai, các nội dung có liên quan đến khuyến nghị của EC được thể hiện trong
phần quy định chung như:
- Điều 2 của Luật khẳng định: tổ
chức, cá nhân Việt Nam đi khai thác thủy sản ở ngoài vùng biển Việt Nam cũng là
đối tượng áp dụng của Luật
- Một số thuật ngữ được sử dụng
trong Luật được quy định đảm bảo tính tương thích với pháp luật quốc tế và yêu
cầu của EC như: khái niệm về khai thác thủy sản, hoạt động hậu cần đánh bắt nguồn
lợi thủy sản, tàu cá, tổ chức nghề cá khu vực...(Điều 3).
- Trong nguyên tắc hoạt động thủy
sản có quy định về cách tiếp cận thận trọng, dựa vào hệ
sinh thái và các chỉ số khoa học trong quản lý hoạt động thủy sản để bảo đảm
phát triển thủy sản bền vững.
- Luật khẳng định nghiêm cấm khai thác thủy sản bất hợp pháp, không báo cáo, không theo quy định;
mua, bán, vận chuyển, tàng trữ, sơ chế, chế biến thủy sản từ khai thác thủy sản
bất hợp pháp, thủy sản có tạp chất nhằm mục đích gian lận thương mại.
- Thực hiện hợp tác quốc tế trong
bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật trong vùng biển quốc
tế, loài cá di cư theo quy định của tổ chức nghề cá khu vực và Công ước của
Liên Hợp quốc về Luật Biển năm 1982; kiểm tra, xử
lý hành vi khai thác thủy sản bất hợp pháp trong và ngoài lãnh thổ Việt Nam
theo quy định của điều ước quốc tế mà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
- Huy động sức mạnh của cộng đồng
trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản, kiểm soát các hoạt động khai thác bất hợp
pháp, không báo và không theo quy định thông qua việc thực hiện đồng quản lý
trong bảo vệ nguồn lợi thủy sản.
Thứ ba, các nội
dung có liên quan đến khuyến nghị của EC được thể hiện trong quy định về bảo vệ
và phát triển nguồn lợi thủy sản như sau:
- Trong Luật Thủy sản và Luật Quy
hoạch đã khẳng định việc quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn
lợi thủy sản và giao Bộ Nông nghiệp
và Phát triển nông thôn chủ trì, phối hợp với Bộ, cơ quan ngang Bộ và Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh có liên quan tổ chức xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt quy hoạch bảo vệ và khai thác nguồn lợi thủy sản.
- Luật khẳng định điều
tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường
sống của loài thủy sản là nhiệm vụ thường xuyên và xác định
chương trình điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và
môi trường sống của loài thủy sản bao gồm: (1) điều tra, đánh giá tổng thể nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của
loài thủy sản trên phạm vi cả nước định
kỳ 05 năm; (2) điều tra, đánh giá
nghề cá thương phẩm hằng năm; (3) điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường sống của loài thủy
sản theo chuyên đề.
Bên cạnh đó, Luật còn quy định:
(1) Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tổ chức điều tra, đánh giá tổng thể nguồn lợi
thủy sản và môi trường sống của loài thủy sản trên phạm vi cả nước định kỳ 05
năm và theo chuyên đề, xây dựng, ban hành kế hoạch và biện pháp
quản lý nguồn lợi thủy sản; (2) Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản theo chuyên
đề Tổ chức thực hiện điều tra, đánh giá nguồn lợi thủy sản và môi trường sống
của loài thủy sản theo chuyên đề, nghề cá thương phẩm trên địa
bàn và xây dựng, tổ chức thực hiện kế hoạch bảo vệ và phát
triển nguồn lợi thủy sản trên địa bàn.
Thứ tư, các nội dung có liên quan đến khuyến nghị của
EC được thể hiện trong quy định về khai thác thủy sản như sau:
- Quy định về hạn ngạch giấy phép
khai thác thủy sản trên biển.
- Hạn ngạch giấy
phép khai thác được xác định trên cơ sở kết quả điều tra, đánh giá trữ lượng
nguồn lợi thủy sản; xu hướng biến động nguồn lợi thủy sản; tổng sản lượng thủy
sản tối đa cho phép khai thác bền vững; cơ cấu nghề, đối
tượng khai thác, vùng biển khai thác; sản lượng cho phép
khai thác theo loài đối với loài thủy sản di cư xa hoặc loài thủy sản có tập
tính theo đàn.
- Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn có trách nhiệm xác định, giao hạn ngạch Giấy phép khai thác
thủy sản, sản lượng cho phép khai thác theo loài tại vùng
khơi và giao cho các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương
thực hiện cấp phép; Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh xác định hạn
ngạch Giấy phép khai thác thủy sản, sản lượng cho phép khai thác theo loài tại
vùng ven bờ và vùng lộng thuộc phạm vi quản lý.
- Một trong số
các điều kiện để tổ chức, cá nhân được cấp phép khai thác thủy sản là: còn hạn
ngạch giấy phép, đối với tàu cá có chiều dài từ 15 mét trở lên phải lắp đặt thiết
bị giám sát hành trình và chỉ được cấp lại giấy phép khi đã nộp nhật ký khai
thác theo quy định và tàu cá không thuộc danh sách tàu cá khai thác thủy sản bất
hợp pháp do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn công bố
- Luật khẳng định: Nội dung giấy
phép phải thể hiện rõ: (1) Số đăng ký tàu cá; (2) tên tàu, hô hiệu, mã số của Tổ
chức Hàng hải quốc tế (nếu có); (3) Nghề, vùng biển hoặc khu vực được phép khai
thác; (4) Thời gian hoạt động khai thác của từng nghề; Sản lượng cho phép khai
thác theo loài (nếu có); (5) Cảng cá đăng ký; (6) Thời hạn của giấy phép.
- Luật khẳng định: thu hồi giấy
phép trong trường hợp khai thác thủy sản trái phép ở ngoài vùng biển Việt Nam.
- Tổ chức, cá nhân khai thác thủy
sản phải treo Quốc kỳ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trên tàu cá khi
hoạt động; đánh dấu tàu cá theo vùng biển, đánh dấu ngư cụ đang sử dụng tại ngư
trường theo quy định; ghi, nộp báo cáo, nhật ký khai thác thủy sản; khai thác
thủy sản ngoài vùng biển Việt Nam được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
chấp thuận đối với tàu cá khai thác thủy sản tại vùng biển của quốc gia, vùng
lãnh thổ khác hoặc cấp phép đối với khai thác thủy sản tại vùng biển thuộc quyền
quản lý của tổ chức nghề cá khu vực; được cơ quan có thẩm quyền của quốc gia,
vùng lãnh thổ có biển cho phép hoặc được tổ chức quản lý nghề cá khu vực cấp hạn
ngạch cho Việt Nam;
- Luật quy định: Thuyền trưởng tàu
cá có trách nhiệm: cho tàu cập cảng chỉ định đối với
tàu khai thác từ vùng khơi trở ra; ghi,
nộp nhật ký khai thác thủy sản; nộp báo cáo khai thác thủy sản; xác nhận sản lượng
thủy sản khai thác.
- Luật quy định rõ việc xác nhận
nguồn gốc thủy sản từ khai thác: (1) cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam xác nhận nguyên liệu, chứng nhận sản phẩm thủy sản có nguồn gốc từ
khai thác tại vùng biển Việt Nam không vi phạm quy định khai thác bất hợp pháp
cho tổ chức, cá nhân khi có yêu cầu; (2) nguyên liệu thủy sản nhập khẩu được cơ
quan có thẩm quyền của nước xuất khẩu chứng nhận có nguồn gốc từ khai thác
không vi phạm quy định khai thác thủy sản bất hợp pháp khi có yêu cầu của tổ chức,
cá nhân nhập khẩu; (3) sản phẩm thủy sản xuất khẩu có nguồn gốc từ nguyên liệu
thủy sản nhập khẩu được cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam xác nhận khi có yêu
cầu của tổ chức, cá nhân xuất khẩu trên cơ sở nguyên liệu sản xuất sản phẩm thủy sản đó được cơ quan có thẩm quyền của nước
xuất khẩu chứng nhận có nguồn gốc không vi phạm quy định khai thác thủy sản bất
hợp pháp.
- Việc
đăng ký tàu cá được phân cấp rõ cho địa phương thực hiện đăng ký đối với tàu cá
của địa phương mình quản lý và phải cập nhật vào Sổ đăng ký tàu cá quốc gia ( Sổ
điện tử) ….do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng và quản lý.
Thứ năm, các nội dung có liên
quan đến khuyến nghị của EC được thể hiện trong quy định về quản lý cảng cá như
sau:
- Luật khẳng định tổ chức quản lý
cảng cá có nghĩa vụ: (1) phối hợp và bố trí địa điểm làm
việc để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm soát
việc chấp hành quy định của pháp luật về quản lý khai thác thủy sản, bảo vệ nguồn
lợi thủy sản, kiểm soát hoạt động khai thác thủy sản bất hợp pháp, an toàn thực
phẩm và các lĩnh vực khác có liên quan trên tàu cá, tại cảng cá; (2) người đứng
đầu tổ chức quản lý cảng cá tổ chức thực hiện thống kê sản lượng thủy sản qua cảng,
xác nhận nguồn gốc thủy sản khai thác theo quy định, thu nhận nhật ký, báo cáo
khai thác thủy sản của tàu cá vào cảng, tổng hợp báo cáo cho cơ quan nhà nước
có thẩm quyền theo theo hướng dẫn của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn;
(3) từ chối không cho bốc dỡ sản phẩm tại cảng đối với tàu cá khai thác thủy sản
bất hợp pháp và thông báo cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xem xét, xử lý
theo quy định; (4) trường hợp có tàu nước ngoài cập cảng, phải thông báo ngay
cho cơ quan chức năng của địa phương để phối hợp quản lý.
- Thuyền trưởng
tàu nước ngoài khi vào cảng cá phải xuất trình và khai báo các thông tin, giấy tờ:
sổ danh bạ thuyền viên và hộ chiếu của
người đi trên tàu; Giấy phép hoạt động thủy sản trong vùng biển Việt Nam; mục đích vào cảng cá; thời gian chuyến biển; khối lượng,
thành phần loài thủy sản khai thác hoặc được chuyển tải trên tàu cá đối với tàu
khai thác và tàu vận chuyển thủy sản; vị trí, vùng biển khai thác, sản lượng thủy sản trên tàu đối với tàu
khai thác thủy sản.
Thứ sáu, trách nhiệm của chính quyền các cấp:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn có trách nhiệm: (1) Công bố danh sách cảng cá chỉ định cho tàu hoạt động
từ vùng khơi trở ra cập cảng, tàu nước ngoài cập cảng; (2) công bố danh sách
tàu cá khai thác bất hợp pháp; (3) quy định về nội
dung, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xác nhận nguyên liệu, chứng nhận nguồn gốc
thủy sản khai thác, xác nhận nguyên liệu thủy sản
nhập khẩu không có nguồn gốc từ khai thác bất hợp pháp; (4) xây dựng kế hoạch và tổ chức thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại,
tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thủy sản theo thẩm quyền; là cơ quan đầu mối
thực hiện hợp tác quốc tế trong lĩnh vực thủy sản.
- Uỷ ban nhân
dân cấp tỉnh: (1) Tổ chức quản lý cảng cá, khu neo đậu
tránh trú bão cho tàu cá theo phân cấp; thực hiện thanh tra, kiểm tra, kiểm
soát, chấp hành các quy định pháp luật về khai thác thủy sản, bảo vệ nguồn lợi
thủy sản, an toàn thực phẩm trên tàu cá, tại cảng cá, bảo vệ môi trường, phòng
chống cháy nổ tại cảng cá, thu thập, tổng hợp báo cáo số liệu về thủy sản qua cảng
cá theo quy định; (2) chỉ đạo xây dựng kế hoạch, tổ chức
thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về
thủy sản theo thẩm quyền; (3) tổ chức
quản lý cảng cá, khu neo đậu tránh trú bão cho tàu cá theo phân cấp; thực hiện
thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, chấp hành quy định của pháp luật về khai thác
thủy sản, bảo vệ nguồn lợi thủy sản, an toàn thực phẩm trên tàu cá, tại cảng
cá, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy, nổ tại cảng cá, thu thập, tổng hợp báo cáo số liệu về thủy sản qua cảng cá theo quy định; (4) xây dựng cơ sở dữ liệu về thủy sản trên địa
bàn và cập nhật hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về thủy sản.
Thứ bảy, xử lý đối với hành vi vi phạm được quy định
như sau:
- Xử lý hành chính: Luật Thủy sản
2017 đã sửa đổi mức xử phạt vi phạm hành chính tối đa
trong lĩnh vực bảo vệ nguồn lợi thủy sản, hải sản quy định tại điểm đ khoản 1
Điều 24 của Luật Xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 như sau: mức phạt tiền
tối đa trong lĩnh vực quản lý nhà nước về thủy sản đối với cá nhân là
1.000.000.000 đồng. Như vậy mức phạt đã được quy định tăng
lên gấp 10 lần so với mức phạt tiền như quy định hiện hành. Theo đó, khi luật
có hiệu là áp dụng được ngay không phải tiến hanh sửa Luật Xử lý vi phạm hành
chính.
V. CÁC
ĐIỀU KIỆN BẢO ĐẢM THỰC HIỆN LUẬT:
1. Nhà nước ban hành và tổ chức thực hiện các
chính sách đầu tư, hỗ trợ, khuyến khích cho tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động
thủy sản đã được quy định trong Luật Thủy sản năm 2017.
2. Hoàn thiện hệ thống văn bản hướng dẫn thi
hành Luật đúng thời hạn và đúng quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm
pháp luật.
3. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến các quy định của
Luật đến các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật từ cơ quan quản lý đến người
dân và doanh nghiệp tham gia hoạt động thủy sản.
4. Ủy ban nhân dân các cấp tổ chức triển khai thực
hiện các nội dụng được phân công, phân cấp trong Luật một cách quyết liệt và
triệt để.
5. Các cơ quan có thẩm quyền quan tâm và bố trí
nguồn nhân lực, ngân sách phù hợp cho việc tổ chức triển khai thi hành Luật.
6. Có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp
trong việc triển khai thực hiện Luật Thủy sản năm 2017.
VI. DỰ BÁO TÁC ĐỘNG CỦA LUẬT
ĐẾN NGƯỜI DÂN VÀ XÃ HỘI
1. Việc thực hiện Luật Thủy sản năm 2017 sẽ có ảnh
hưởng rất lớn đến người dân, doanh nghiệp theo hướng tích cực bởi Luật đã quy định
triệt để các dịch vụ công, đơn giản hóa các thủ tục hành chính và thay đổi một
số phương thức quản lý đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh của tổ chức, cá
nhân tham gia hoạt động thủy sản theo hướng nâng cao trách nhiệm của người dân,
doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước sẽ giảm sát và hỗ trợ để thúc đẩy hoạt động
sản xuất kinh doanh của đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật. Tuy nhiên, nếu
người dân, doanh nghiệp không thực hiện đúng các quy định của Luật sẽ có các ảnh
hưởng tiêu cực đến sự phát triển của ngành thủy sản.
2. Một số quy định mới để nhằm quản lý nguồn lợi
thủy sản hiệu quả và đảm bảo phát triển thủy sản bền vững, bước đầu thực hiện
có thể ngư dân sẽ bị ảnh hưởng vì có sự thay đổi trong cách quản lý để chuyển dần
từ nghề cá nhân dân sang nghề cá hiện đại, có trách nhiệm và phát triển bền vững
do đó, các điều kiện sẽ được siết chặt hơn nhằm đảm bảo cân bằng giữa cường lực
khai thác với trữ lượng nguồn lợi thủy sản hiện có trong vùng biển Việt Nam. Để
thực hiện được các quy định mới được đề xuất trong Luật cần có sự triển khai
triệt để của các cấp chính quyền, cơ quan lý về thủy sản và đặc biệt sự chấp
hành nghiên chỉnh của người dân và doanh nghiệp.
3. Luật quy định theo hướng giảm thiểu tối đa về
các điều kiện đầu tư trong hoạt động thủy sản do đó sẽ thúc đẩy sản xuất, kinh
doanh của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực thủy sản.
V. TRIỂN KHAI HOẠT ĐỘNG THI
HÀNH LUẬT
1. Phổ biến pháp luật về thủy sản:
a) Biên soạn các tài liệu tuyên truyền Luật Thủy
sản năm 2017 đăng trên các phương tiện truyền thông, Cổng thông tin điện tử Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tư pháp...
- Cơ quan chủ trì: Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
- Cơ quan phối hợp: Bộ Tư pháp và các cơ quan, tổ
chức liên quan.
- Thời gian thực hiện: năm 2018 và các năm tiếp
theo.
b) Tổ chức hội nghị phổ biến, quán triệt nội
dung cơ bản, các điểm mới của Luật Thủy sản và các văn bản hướng dẫn thi hành
cho các đối tượng chịu sự điều chỉnh của Luật.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
- Cơ quan phối hợp: các địa phương, các Bộ và
các cơ quan, tổ chức liên quan.
- Thời gian thực hiện: năm 2018 và các năm tiếp
theo.
c) Tổ chức thông tin, truyền thông, giáo dục
nâng cao nhận thức của cộng đồng về thủy sản trên các phương tiện truyền thông.
- Bộ Thông tin và Truyền thông phối hợp với Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn xây dựng chương trình, tài liệu phổ biến,
tuyên truyền Luật Thủy sản và các văn bản hướng dẫn thi hành trên các phương tiện
thông tin đại chúng.
- Đài Tiếng nói Việt nam, Đài Truyền hình Việt
nam và các cơ quan chủ quản báo chí Trung ương, địa phương chủ trì, phối hợp với
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ủy ban nhân dân các cấp xây dựng chương
trình, chuyên mục, trang phổ biến, tuyên truyền nội dung của Luật Thủy sản, có
tin bài phản ánh kịp thời về tình hình triển khai thi hành Luật Thủy sản trên
phạm vi cả nước.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Thông tin và Truyền thông.
- Cơ quan phối hợp: các Bộ và các cơ quan, tổ chức
liên quan.
- Thời gian thực hiện: năm 2018 và các năm tiếp
theo.
d) Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp
luật về thủy sản tại địa phương
- Cơ quan chủ trì: Ủy ban nhân dân các cấp.
- Cơ quan phối hợp: cơ quan, tổ chức liên quan.
- Thời gian thực hiện: năm 2018 và các năm tiếp
theo.
2. Rà soát, xây dựng các văn bản quy
phạm pháp luật để thi hành Luật Thủy sản:
a) Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật quy định
chi tiết và hướng dẫn thi hành các nội dung được giao trong Luật Thủy sản, cụ
thể trong năm 2018:
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì
xây dựng, trình Chính phủ ban hành 02 Nghị định hướng dẫn thi hành Luật; 01 Quyết
định của Thủ tướng Chính phủ và ban hành theo thẩm quyền 08 Thông tư hướng dẫn
thi hành Luật.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường chủ trì xây dựng,
trình Chính phủ ban hành Nghị định hướng dẫn liên quan đến giao khu vực biển để
nuôi trồng thủy sản theo nội dung được giao trong Luật Thủy sản năm 2017.
- Bộ Tài chính xây dưng và ban hành Thông tư quy
định việc thanh toán chi phí cho tổ chức, cá nhân được điều động,
huy động, cộng tác viên Kiểm ngư theo nội dung của Luật Thủy sản
- Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành tiêu chí đặc
thù của địa phương và quy trình xét duyệt hồ sơ đề nghị cấp văn bản chấp thuận
đóng mới, cải hoán, thuê, mua tàu cá trên biển; quy định về đóng mới, cải hoán,
thuê, mua tàu cá hoạt động trong nội địa thuộc phạm vi quản lý
b) Rà soát, các văn bản quy phạm pháp luật, các
tiêu chuẩn, quy chuẩn đã ban hành, đề xuất sửa đổi, bổ sung, thay thế, bãi bỏ
hoặc ban hành mới, bảo đảm thống nhất với Luật Thủy sản.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn.
- Cơ quan phối hợp: Bộ Khoa học và Công nghệ và
các cơ quan, tổ chức liên quan.
- Thời gian hoàn thành: Quý IV năm 2018.
3. Tổ chức tập huấn, bồi
dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho người tham gia hoạt động thủy sản:
Tổ chức tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ
cho công chức, viên chức, tổ chức và người trực tiếp làm công tác thủy sản.
- Cơ quan chủ trì: Bộ Nông nghiệp và Phát triển
nông thôn; Ủy ban nhân dân các cấp.
- Cơ quan phối hợp: Các bộ, ngành có liên quan.
- Thời gian thực hiện: Năm 2018 và các năm tiếp
theo.