1.
|
Lý Huệ Tông (1194-1226)
Là vị vua thứ tám của triều Lý. Lý Huệ Tông
(huý Hạo Sảm), con trưởng của Lý Cao Tông, mẹ là Hoàng hậu họ Đàm, sinh vào
tháng 7 năm Giáp Dần (1194). Năm Mậu Thìn (1208) sắc lập làm Hoàng Thái Tử.
Khi Lý Cao Tông qua đời, ông lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Kiến Gia.
Lý Huệ Tông làm vua ở ngôi 14 năm
(1210-1224). Lý Huệ Tông qua đời ngày 20 tháng 12 năm Bính Tuất (1226), thọ
33 tuổi (1194-1226), táng ở Thọ Lăng Thiên Đức hương Cổ Pháp quê nhà. Nhân
dân và triều đình thờ người ở Đền Đô.
Lý Huệ Tông không có con trai. Năm 1224, truyền
ngôi cho con gái là công chúa Phật Kim, tức Lý Chiêu Hoàng, rồi xuất ra ở
chùa Chân Giáo, xưng là Huệ Quang đại sư.
|
2.
|
Văn Chỉ
Văn Chỉ là tên địa danh, xưa kia trên khu đất
này làng Trang Liệt đã xây dựng Văn Chỉ để thờ những người đỗ đạt cao của địa
phương. Làng Trang Liệt xưa có tên nôm là Sặt Đồng; trước năm 1945, là đơn vị
cấp xã, thuộc tổng Phù Lưu, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; đến
năm 1948 sáp nhập với xã Bính Hạ thành xã Trang Hạ. Làng Trang Liệt có chợ, họp
vào các buổi sáng. Trang Liệt là một làng khoa bảng, trước năm 1945, làng có
8 vị đỗ Tiến sỹ.
Nay địa danh Trang Liệt, thuộc phường Trang Hạ,
thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
|
3.
|
Tây Nội
Tây Nội là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc,
phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm:
Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc
là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay
là phường Phù Chẩn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
4.
|
Đông Miếu
Miếu là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc,
phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm:
Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc
là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay
là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
5.
|
Nam Miếu
Miếu là tên xóm, thuộc khu phố Phù Lộc,
phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc có 4 xóm:
Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945 Phù Lộc
là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2 năm 2021 đến nay
là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
6.
|
Giang Long
Giang Long là tên sông, thuộc xóm Dưa Sông,
khu phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là một
tên dòng sông cổ, ngày xưa thường gọi là Giang Long do dòng sông chạy giữa
xóm Dưa Sông, ngày nay dòng sông bị thu hẹp lại và đã làm ngầm hoá dòng sông.
Đây là tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
7.
|
Đồng Cả
Đồng Cả là tên xóm, tên cổ xưa còn gọi
là Cổng Đồng, sau cách mạng tháng tám năm 1945 đổi tên là Đồng Cả thuộc khu
phố Phù Lộc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Phù Lộc
có 4 xóm: Tây Nội, Miếu, Dưa Sông và Đồng Cả; Trước cách mạng tháng 8 năm
1945 Phù Lộc là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông
Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021
đến nay là phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
8.
|
Sóc Cả
Sóc Cả là tên xóm, thuộc khu phố Doi
Dóc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Doi Sóc có 3
xóm: Doi Sóc, Sóc Cả và Sóc Tá; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Doi Sóc là
đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ
năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường
Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn
sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
9.
|
Sóc Tá
Sóc Tá là tên xóm, thuộc khu phố Doi
Dóc, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Doi Sóc có 3 xóm:
Doi Sóc, Sóc Cả và Sóc Tá; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Doi Sóc là đơn vị
hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm
1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn,
thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong
tiềm thức của nhân dân địa
phương.
|
10.
|
Gạo Trên
Gạo Trên là tên xóm, thuộc khu phố Rích
Gạo, phường Phù Chẩn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Rích Gạo xưa
kia có 2 xóm: Gạo Trên và Gạo Dưới; Trước cách mạng tháng 8 năm 1945, Rích Gạo
là đơn vị hành chính cấp xã, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn; Từ năm 1948 đến năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Phù Chẩn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
11.
|
Rích Gạo
Rích Gạo là tên khu phố, xưa còn có tên nôm là
làng Cháy, thuộc tổng Phù Chẩn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh;
Trước năm 1945, Rích Gạo là đơn vị xã, thuộc tổng Phù Chẩn; Từ năm 1948 đến
năm 2021 thuộc xã Phù Chẩn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường Phù Chẩn, thuộc
thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong
tiềm thức của nhân dân địa
phương.
|
12.
|
Chúc
Chúc là tên xóm, thuộc
khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố
Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp
xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm
1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên
Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
13.
|
Chi
Chi là tên xóm, thuộc
khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố
Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp
xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm
1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên
Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
14.
|
Tự
Tự là tên xóm, thuộc
khu phố Dương Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố
Dương Sơn có 3 xóm: Chúc, Chi, Tự; Trước năm 1945, Dương Sơn là đơn vị cấp
xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm
1948 đến năm 1949, là xã Dương Sơn; Từ năm 1949 đến năm 1971, thuộc xã Liên
Sơn; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
15.
|
Ngô Sách Thí (1632 -?)
Tự là Đỗ Thi, Thụy Trung Túc, sinh năm Nhâm
Thân, người xã Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, nay là khu phố Tam Sơn, phường Tam
Sơn. Nguyên quán xã Nghĩa Lập, nay là khu phố Nghĩa Lập, phường Phù Khê,
thành phố Từ Sơn. Ông là cha của Tiến sĩ Ngô Sách Dụ, Ngô Sách Tuân, ông nội
Tiến sĩ Ngô Sách Tố. cháu nội Nguyễn Gia Mưu (đổi sang họ Ngô). Năm 28 tuổi đỗ
Đệ Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Hợi niên hiệu Vĩnh Thọ 2 (1659) đời
vua Lê Thần Tông. Ông làm quan đến chức Án sát.
|
16.
|
Núi
Núi là tên xóm, thuộc khu
phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn
có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính
cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ
năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên
Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường
Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một
trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi
tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
17.
|
Trước
Trước là tên xóm, thuộc
khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam
Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành
chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh;
Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã
Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng,
là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám
hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
18.
|
Ô
Ô là tên xóm, thuộc
khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam
Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành
chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh;
Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã
Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng,
là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám
hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
19.
|
Xanh
Xanh là tên xóm, thuộc
khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam
Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành
chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh;
Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã
Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng,
là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám
hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
20.
|
Tây
Tây là tên xóm, thuộc
khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam
Sơn có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành
chính cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh;
Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã
Liên Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là
phường Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng,
là một trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám
hoa), nổi tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
21.
|
Đông
Đông là tên xóm, thuộc khu
phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Tam Sơn
có 6 xóm: Núi, Trước, Ô, Xanh, Tây, Đông. Trước năm 1945, Tam Sơn là đơn vị hành chính
cấp xã, thuộc tổng Tam Sơn, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ
năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Phúc Sơn; Từ năm 1949 đến 1971, thuộc xã Liên
Sơn; Từ năm 1971 năm 2021 thuộc xã Tam Sơn, từ tháng 2/2021 đến nay là phường
Tam Sơn, thuộc thành phố Từ Sơn. Làng Tam Sơn là một làng khoa bảng, là một
trong số ít làng có đủ cả Tam khôi (Trạng nguyên, Bảng nhãn, Thám hoa), nổi
tiếng nhất là họ Ngô và họ Nguyễn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
22.
|
Dinh
Tam Sơn là đất ngàn năm văn vật, mảnh đất có
đủ tam khôi: Trạng Nguyên Bảng Nhãn, Thám Hoa. Trong lịch sử làng Tam Sơn, cụ
Ngô Sách Tố đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ cập đệ Tam danh (Thám Hoa) khoa Tân Sửu
niên hiệu Bảo Thái 2 (1721) đời vua Lê Dụ Tông. Sau khi đỗ đạt và làm quan cụ
được phong đất và xây dựng khu Dinh và luyện quân tại khu vực này, Sau này
nhân dân gọi khu đất ấy là khu Dinh. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
23.
|
Dọc Xanh
Dọc Xanh là tên địa danh xứ đồng, trước đây là xứ đồng
Dọc Xanh thuộc khu ruộng canh tác của xóm Ô và xóm Xanh.
Dọc Xanh là tên khu dân cư, thuộc khu phố Tam
Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Năm 2001 nhà nước chuyển
đổi khu xứ đồng Dọc Xanh thành khu dân cư mới và nhân dân địa phương đã lấy
tên gọi Dọc Xanh để đặt tên khu dân cư mới này. Đây là tên gọi đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
24.
|
Cầu Cháy
Cầu Cháy là tên xứ đồng, thuộc khu phố Mai Động,
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Theo nhân dân địa phương
trên trục đường tuyến phố đi qua xưa là xứ đồng Cầu Cháy, khu vực này trước
đây nhân dân địa phương có dựng một nhà Cầu giữa đồng để nhân dân địa phương
tránh mưa năng và nghỉ ngơi khi lao động mệt nhọc. Nhà Cầu được dựng cột đá,
trên là khung gỗ và lợp ngói. Thời kỳ chống Pháp xâm lược giặc Pháp đã đốt và
phá nhà Cầu này và cánh đồng lúa này đã được nhân dân đặt tên là xứ đồng Cầu
Cháy. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của
nhân dân địa
phương.
|
25.
|
Giếng
Giếng là tên xóm, thuộc khu phố Mai Động,
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Mai Động còn gọi
làng Mai Động, có tên nôm là Đồng Mỗi, hay làng Moi có 12 xóm là: Cầu Ngoài,
Ngõ Giỏ, Sau Đồng, Đông Tiến, Chùa, Ngõ Chùa, Ngõ Đình, Ngõ Đãi, Giếng, Giữa
và Ngõ Làng. Trước năm 1945, là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Mai Động; Từ năm
1949 đến năm 1970, thuộc xã Minh Đức; Từ năm 1970 đến năm 2021 thuộc xã Hương
Mạc, từ năm 2021 đến nay là phường Hương Mạc.
Địa danh này gắn với tên Giếng cổ, hiện nay Giếng cổ
này vẫn còn, nước giếng rất trong, ngày xưa giếng này là nước ăn sinh hoạt
cho cả làng. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong
tiềm thức của nhân dân địa
phương.
|
26.
|
Chùa Đông
Chùa Đông là tên chùa, tương truyền khu vực
này trước kia có ngôi chùa cổ của làng Đồng Mỗi (tên nôm của làng Mai Động,
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn ngày nay). Ngôi chùa được xây dựng nằm ở
phía Đông của làng nên nhân dân địa phương quen gọi là Chùa Đông. Chùa Đông
đã bị phá hủy toàn toàn trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp xâm lược. Để ghi
nhớ công trình văn hóa đã ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân, địa phương đề
nghị lấy tên gọi Chùa Đông là tên gọi tuyến phố đi qua khu đất Chùa Đông xưa.
Đây là tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
27.
|
Đình
Đình là tên gọi tắt xóm Ngõ Đình, thuộc khu phố Mai Động
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Mai Động, còn
gọi làng Mai Động, có tên nôm là Đồng Mỗi, hay làng Moi có 12 xóm là: Cầu Ngoài,
Ngõ Giỏ, Sau Đồng, Đông Tiến, Chùa, Ngõ Chùa, Ngõ Đình, Ngõ Đãi, Giếng, Giữa
và Ngõ Làng. Trước năm 1945, là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Mai Động; Từ năm
1949 đến năm 1970, thuộc xã Minh Đức; Từ năm 1970 đến năm 2021 thuộc xã Hương
Mạc, từ năm 2021 đến nay là phường Hương Mạc.
Đình là tên gọi tắt Đình Mai Động, thuộc khu phố Mai Động,
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đình Mai Động thờ thần
Thành hoàng là Quý Minh Đại Vương, Nguyệt Anh công chúa, Phi Nương công chúa.
Đình được xây dựng vào thời Lê ở phía tây của làng; năm 1885, dân làng tôn tạo
và chuyển về vị trí hiện nay. Đình còn lưu giữ được 3 bản sao Thần tích (năm
1740, 1922 và 1923) và 16 đạo sắc phong của triều Lê, Nguyễn ban tặng cho thần.
Đình được xếp hạng Di tích Kiến trúc - Nghệ thuật cấp Nhà nước năm 1989.
|
28.
|
Cửa Chùa
Cửa Chùa là tên địa danh, đây là tên tuyến
phố đi qua trước cửa chùa Mai Động, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. Chùa Mai Động còn có tên chữ là Đại Bi Tự, hay còn gọi là chùa Mỗi,
chùa được xây dựng từ thời Lê. Trong kháng chiến chống Pháp, chùa bị phá huỷ.
Chùa được tu tạo vào năm 1992 và 2000. Cửa Chùa là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
29.
|
Đông Tiến
Đông Tiến là tên xóm, thuộc khu phố Mai Động
phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Mai Động, xưa
là làng Mai Động, còn có tên nôm là Đồng Mỗi, hay làng Moi có 12 xóm là: Cầu
Ngoài, Ngõ Giỏ, Sau Đồng, Đông Tiến, Chùa, Ngõ Chùa, Ngõ Đình, Ngõ Đãi, Giếng,
Giữa và Ngõ Làng. Trước năm 1945, là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện
Đông Ngàn, phủ Từ Sơn; Từ năm 1948 đến năm 1949, thuộc xã Mai Động; Từ năm
1949 đến năm 1970, thuộc xã Minh Đức; Từ năm 1970 đến năm 2021 thuộc xã Hương
Mạc, từ năm 2021 đến nay là phường Hương Mạc. Đông Tiến là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
30.
|
Nguyễn Chu Hòa
Người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn
(nay là khu phố Kim Thiều, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh).
Ông tên tự là Nhã Phong, sinh năm Mậu Dần
(1578) xuất thân là Giám sinh (học sinh ở trường Quốc Tử Giám) Năm 51 tuổi,
ông đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân (Tiến sĩ) khoa Mậu Thìn niên hiệu
Vĩnh Tộ thứ 10 (1628), đời vua Lê Thần Tông. Ông giữ chức quan Giám sát ngự sử
(hàm Thất phẩm)
|
31.
|
Nguyễn Doãn Văn
Người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngàn
(nay là khu phố Kim Thiều, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc
Ninh).
Theo sách “Các vị đại khoa tỉnh Bắc Ninh”
Nguyễn Doãn Văn là người đầu tiên đỗ đạt bậc đại khoa ở Hương Mạc, ông có tên
hiệu là Phục Trực Đại phu, thụy Giác đạo tiên sinh. Ông đỗ đệ nhất giáp đệ
tam danh (Thám Hoa) tại khoa thi niên hiệu Thiệu Phong (1341-1357) đời vua Trần
Dụ Tông. Ông là người mở đầu cho dòng khoa bảng rực rỡ của vùng đất Hương Mạc.
Ông làm quan trong triều Trần thường trực tại cấm môn thảo chiêu mọi việc của
Viện hàn lâm. Về sau được nhà vua cử làm An phủ phó sứ. Năm Thiệu Khánh thứ 2
(1371), đời vua Trần Nghệ Tông ông được cử vào phủ Thanh Hoa (nay là tỉnh
Thanh Hoá). Ông được về trí sĩ mở trường dạy học đạo tạo nho sinh tại thôn
Nùi. Hiện nay ở địa phương vẫn còn lưu danh “cụ Thám Nùi”. Theo sách “Cổ Mặc
danh công truyền ký” ông là người soạn văn bia chùa Sùng Hộp (Sùng Hựu) ở
thôn Hương Mạc. Nay chùa đã được phục dựng như bia mờ hết chữ, chỉ còn lại
bài thơ trong “Cổ Mặc danh công truyền ký”. Sau khi ông mất được truy
tặng “Giác đạo tiên sinh”.
|
32.
|
Đàm Công Hiệu
Đàm Công Hiệu (hay còn gọi là Đàm Hy) Quê ở làng
Ông Mặc, tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, xứ Kinh Bắc (nay là khu phố Hương Mạc, phường Hương Mạc, thành phố Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh). Ông
sinh năm Nhâm Thìn (1652) đời vua Lê Thần Tông, là hậu duệ đời thứ 6 của cụ
Đàm Thận Huy. Thời niên thiếu ông là người thông minh, ham học. Năm Quý Sửu
1673 ông thi đỗ Nho sinh trúng thức, năm Giáp Tý 1684 ông đỗ Sỹ vọng.
Năm 1679 ông nhận chức Thị Nội văn chức nhất
phiên vào giảng sách trong vương phủ. Năm Mậu Dần (1698) cụ dạy học cho Trịnh
Cương, phò giúp Trịnh Cương nối ngôi…trong thời gian ở phủ chúa cụ đã có nhiều
công lao với triều đình và trải qua nhiều chức vụ như: Thị Nội thư, Bộ thuyên
khảo thị lang trung (1702), thăng Thông chính sự (1705), Bồi tòng Lễ bộ Hữu
thị lang tước Nghĩa Sơn Nam (1709), Hữu thị lang (1711), Minh nghĩa công thần
Hộ bộ tả thị lang, Nghĩa sơn tử (1714), Công bộ Thượng thư tước bá rồi thăng
Tam tòng (1717), năm Mậu Tuất (1718) ông được gia phong Trị trung thư giám.
Năm 1720 ông 69 tuổi, xin về trí sĩ và được phong Lễ bộ thượng thư tham dự
triều chính, Thiếu bảo quốc lão Nghĩa quận công.
|
33.
|
Chùa Lào
Chùa Lào là tên chùa, hay còn
gọi là Chùa Tràng Tiêu được xây dựng dưới chân núi Tiêu, thuộc khu phố Tiêu Thượng,
phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Chùa Lào là công trình
kiến trúc cổ kính, được xây dựng từ thời Tiền Lê, đến thời Lý là một trung
tâm phật giáo lớn với hệ thống các công trình xây dựng quy mô. Chùa Lào đã bị
phá hủy hoàn toàn trong kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, khu đất
Chùa Lào xưa nay là Trường Tiểu học Tương Giang. Đây là tên địa danh cổ đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
34.
|
Cửa Đình
Cửa Đình là tên xứ đồng và tên địa danh, thuộc khu phố Tiêu
Long, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
35.
|
Đồng Khoai
Đồng Khoai là tên xứ
đồng,
thuộc khu phố Tiêu Long, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Xứ đồng Đồng Khoai hiện nay đã được xây dựng khu dân cư ổn định. Đây là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
36.
|
Nguyễn Cảnh Thọ
Quê xã Hưng Phúc, tổng Ân Phú, huyện Yên Phong,
tỉnh Bắc Ninh (nay là khu phố Hưng Phúc, phường Tương Giang, thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Ông sinh năm Bính Dần đời vua Lê Dụ Tông niên hiệu Vĩnh
Thịnh 12 (1716), năm 24 tuối trúng Tạo sĩ (Tiến sĩ võ) làm quan trong triều Hậu
Lê được phong tới chức Thượng Tướng quân, tước Quyền Quận công. Ông được
phong Phúc thần thờ ở đình Hưng Phúc và Nhà thờ họ Nguyễn Cảnh (Cả 2 di tích
trên đều đã được Nhà nước xếp hạng di tích cấp tỉnh/thành phố). Hiện trong
nhà thờ họ Nguyễn Cảnh còn lưu giữ 02 đạo sắc phong của các triều đại phong
kiến ca ngời những công lao và đóng góp của ông cho triều đình phong kiến.
|
37.
|
Nguyễn Trừ
Theo cuốn gia phả “Hoan Châu - Nghi Tiên Nguyễn
Gia thế phả” thì Nguyễn Trừ là con của cụ Nguyễn Nghiễm và bà vợ thứ năm có
tên Nguyễn Thị Xuân quê ở Tiêu Sơn, Bắc Ninh, ông là người anh cùng cha khác mẹ của đại thi hào Nguyễn Du.
Nguyễn Trừ sinh năm 1760, đến năm 1779 cụ đỗ Tứ trường, được bổ nhiệm là
tri phủ Siêu Loại thời Chiêu Thống, sau đó thăng làm tri phủ Kinh Môn, rồi
làm tri phủ Nam Sách. Cụ mất năm 1809, có cả thảy 3 người con: Nguyễn Thích
(giữ chức tri phủ Nguyễn Hưng, Nam Định), Nguyễn Trù (giữ chức tri phủ Vĩnh
Tường, Vĩnh Phúc) và người con gái út là Nguyễn Thị Uyên được gả vào cung làm
vợ vua Gia Long. Ông là Quốc trượng (bố vợ vua) Gia Long.
|
38.
|
Lý Súy
Lý Súy là vị tướng quân, có công giúp nhà Lý
đánh giặc ngoại xâm giữ nước ở đầu thế kỷ thứ XIII - được dân làng Tiêu Sơn
ngưỡng vọng tôn làm Phúc thần, thờ ở đình và đền miếu của khu phố.
Di tích miếu và đền thờ Lý Súy đã được UBND tỉnh
Bắc Ninh xếp hạng là di tích cấp tỉnh/thành phố. Đây là công trình kiến trúc
nguy nga được xây dựng trên khu đất cao rộng gần 2000m2, giữa làng Tiêu Sơn.
|
39.
|
Ngõ Chùa
Ngõ Chùa là tên xóm, thuộc khu phố Tiêu
Sơn, phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu dân cư này xưa
kia là vườn
chùa Tiêu Sơn, trải qua mưa nắng, lụt lội ngôi chùa xưa đã không còn, tuy
nhiên nhân dân địa phương vẫn lấy tên gọi Ngõ Chùa để đặt tên khu dân cư này.
Đây là
tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
40.
|
Nghiêm Xá
Nghiêm Xá là tên làng, là tên gọi cổ xưa của
làng Tiêu Sơn, hay còn có tên nôm là làng Tiêu Niềm, trước năm 1886, gọi
là Nghiêm Xá; Từ trước năm 1903, làng là đơn vị cấp thôn của xã Tiêu Sơn, tổng
Mẫn Xá, huyện Yên Phong, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh; Từ năm 1903 đến năm 1945,
thuộc tổng Ân Phú; Từ năm 1946 đến năm 1948, thuộc xã Tiêu Sơn; Từ năm 1948 đến
năm 2021 thuộc xã Tương Giang; Từ năm 2021 đến nay là phường Tương Giang,
thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong
tiềm thức của nhân dân địa
phương.
|
41.
|
Cổng Trước
Cổng Trước là tên cổng cổ của xóm Trước, thuộc khu phố Hồi
Quan phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Hồi
Quan, xưa là làng Hồi Quan, còn có tên nôm là Hồi Lan Trang, gồm có 6 xóm là:
Xóm Trùng; Xóm Sau; Xóm Trước; Cổng Xóm; Xóm Chùa và Xóm Đình. Tại những xóm
này, trước đây đều được xây dựng những chiếc cổng cổ là những công trình kiến
trúc rất đẹp. Rất tiếc trải qua thời gian mưa nắng và chiến tranh, những chiếc
cổng này đã bị phá hủy hiện nay không còn. Đây là tên địa danh đã quen dùng
từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
42.
|
Cổng Trùng
Cổng Trùng là tên cổng cổ của xóm Trùng, thuộc khu phố Hồi
Quan phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Hồi
Quan, xưa là làng Hồi Quan, còn có tên nôm là Hồi Lan Trang, gồm có 6 xóm là:
Xóm Trùng; Xóm Sau; Xóm Trước; Cổng Xóm; Xóm Chùa và Xóm Đình. Tại những xóm
này, trước đây đều được xây dựng những chiếc cổng vừa là bảo vệ an ninh địa
phương vừa là những công trình kiến trúc rất đẹp. Rất tiếc trải qua thời gian
mưa nắng và chiến tranh, những chiếc cổng này đã bị phá hủy hiện nay không
còn. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của
nhân dân địa
phương.
|
43.
|
Cổng Sau
Cổng Sau là tên cổng cổ của xóm Sau, thuộc khu phố Hồi
Quan phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Hồi Quan,
xưa là làng Hồi Quan, còn có tên nôm là Hồi Lan Trang, gồm có 6 xóm là: Xóm
Trùng; Xóm Sau; Xóm Trước; Cổng Xóm; Xóm Chùa và Xóm Đình. Tại những xóm này,
trước đây đều được xây dựng những chiếc cổng vừa là bảo vệ an ninh địa phương
vừa là những công trình kiến trúc rất đẹp. Rất tiếc trải qua thời gian mưa nắng
và chiến tranh, những chiếc cổng này đã bị phá hủy hiện nay không còn. Đây là
tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
44.
|
Cổng Xóm
Cổng Xóm là tên xóm, thuộc khu phố Hồi
Quan phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Khu phố Hồi
Quan, xưa là làng Hồi Quan, còn có tên nôm là Hồi Trang, gồm có 6 xóm là: Xóm
Trùng; Xóm Sau; Xóm Trước; Cổng Xóm; Xóm Chùa và Xóm Đình. Từ năm 1903 trở về
trước, làng Hồi Quan là đơn vị cấp xã, thuộc tổng Mẫn Xá, huyện Yên Phong; Từ
năm 1903 đến 1945, thuộc tổng Ân Phú, huyện Yên Phong; Từ năm 1948 đến năm
1970, thuộc xã Tiền Phong; Từ năm 1970 đến năm 2021 thuộc xã Tương Giang, từ
tháng 2/2021 đến nay thuộc phường Tương Giang, thành phố Từ Sơn. Đây là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
45.
|
Hồi Lan
Hồi Lan là tên làng, là tên gọi cổ của
làng Hồi Quan được khắc trên bia năm Ất Mùi 1715 dựng tại đình làng Hồi Quan.
Làng Hồi Lan, sau này là Hồi Quan, thuộc phường Tương Giang, thành phố Từ
Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Làng Hồi Quan từ năm 1903 trở về trước, là đơn vị cấp xã,
thuộc tổng Mẫn Xá, huyện Yên Phong; Từ năm 1903 đến 1945, thuộc tổng Ân Phú,
huyện Yên Phong; Từ năm 1948 đến năm 1970, thuộc xã Tiền Phong; Từ năm 1970 đến
nay, thuộc xã Tương Giang.
|
46.
|
Đình Đôi
Đình Đôi là tên địa danh thường gọi của nhân
dân địa phương,
đây là tên gọi ghép tuyến phố chạy qua 02 ngôi đình nằm kề sát cạnh nhau của
khu phố Phù Khê Đông và Phù Khê thượng (02 công trình văn hóa, tín ngưỡng có
lịch sử lâu đời, gắn liền với đời sống văn hóa, tín ngưỡng của nhân dân). Tuyến
phố này nhân dân địa phương vẫn gọi là phố Đình Đôi. Đây là tên địa danh đã
quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
47.
|
Phù Đàm
Phù Đàm là tên làng, xưa còn có tên là Cổ
Đàm, sau chuyển là Phù Khê. Làng Phù Khê, trước năm 1945 là xã Phù Khê (gồm
02 thôn Đông và Thượng) thuộc tổng Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, tỉnh
Bắc Ninh. Từ năm 1949 đến năm 1960, thuộc xã Nghĩa Khê Tiến; Từ năm 1969 đến
1971, thuộc xã Nghĩa Khê; Từ năm 1971 đến năm 2021 thuộc xã Phù Khê, từ tháng
2 năm 2021 đến nay là phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là
tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
48.
|
Đồng Bèo
Đồng Bèo là tên xứ đồng, thuộc khu phố Phù
Khê Đông, phường Phù Khê, thành phố Từ Sơn. Xứ đồng Đồng Bèo hiện
nay đã được xây dựng khu dân cư ổn định và hiện tại vẫn lấy tên là khu Đồng
Bèo. Đây
là tên địa
danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa phương.
|
49.
|
Nguyễn Gia Mưu
Người xã Nghĩa Lập, huyện Đông Ngàn - nay là
khu phố Nghĩa Lập, phường Phù Khê, đến đời cháu là Nguyễn Gia Sách về quê ngoại
ở xã Tam Sơn (nay là khu phố Tam Sơn, phường Tam Sơn, thành phố Từ Sơn), tằng
tổ của Ngô Sách Dụ, Ngô Sách Tuân, cao tổ của Ngô Sách Tố. Đỗ Đệ tam giáp đồng
Tiến sĩ xuất thân khoa Kỷ Mùi niên hiệu Quảng Bảo 3 (1559) đời Mạc Phúc
Nguyên. Ông làm quan đến chức Tham chính, thăng Phú Hộ. Gia phả họ Ngô ở Tam
Sơn ghi việc Nguyễn Gia Mưu là học trò của Ngô Miễn Thiệu được thầy nhận làm
con nuôi và gả con gái cho. Sau khi đỗ Gia Mưu đổi họ ra họ Ngô, con cháu đời
sau lấy thêm tên đệm là Ngô Sách.
|
50.
|
Quy Chế
Quy chế
là tên nhà máy Quy Chế Từ Sơn, nhà máy được Bộ Công Nghiệp nặng
ra Quyết định thành lập ngày 18/11/1963. Đây là nhà máy Quy Chế đầu tiên ở nước
ta được đặt tại thị trấn Từ Sơn, huyện Tiên Sơn, tỉnh Hà Bắc (nay là phường
Đông Ngàn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Nhà máy sản xuất và kinh doanh
các sản phẩm chi tiết về cơ khí bu lông, đai ốc, vít, vòng đệm theo tiêu chuẩn
và những sản phẩm phục vụ lắp ráp ô tô, xe máy, xe đạp..
Hiện nay nhà máy Quy Chế Từ Sơn đã chuyển về
KCN Tiên Sơn. Tuyến phố nhà máy đi qua trên khu đất nhà máy Quy Chế Từ Sơn
ngày xưa. Đây là tên địa danh đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của
nhân dân địa
phương.
|
51.
|
Hoàng Thụy
Chi (1882 - 1936)
Hoàng Thụy
Chi sinh ngày 27 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, niên hiệu Tự Đức thứ 36 (tức ngày 18/4/1882),
đỗ Cử nhân khoa Canh Tý, niên hiệu Thành Thái thứ 12 (1900), khi 19 tuổi, xếp
thứ 15 trong số 90 người, là Cử nhân trẻ tuổi nhất. Tên hiệu là Tạ Ngọc. Cụ
đã làm Huấn Đạo huyện Gia Viễn, Ninh Bình; Tri huyện các huyện: Kim Sơn, Ninh
Bình; Việt Yên, Bắc Giang; Thanh Oai, Hà Đông; rồi thăng Tri phủ Nho Quan -
Ninh Bình. Hoàng Thụy Chi được cử đi trong phái bộ sang Pháp nghiên cứu năm
1906… Cụ làm Tuần phủ Bắc Giang, sau thăng Tổng đốc, được phong Hàn lâm viện
Thị giảng Học sĩ, và là Hội trưởng Hội Tư văn của làng Phù Lưu.
Khi làm
quan ở nhiều nơi, Hoàng Thụy Chi đã dành nhiều thời gian tìm hiểu, sưu tầm,
ghi lại ca dao, phương ngôn, tục ngữ ở các địa phương; làm thơ, phú, ký về
nơi sinh sống. Là một học giả rất thông thạo chữ Hán, chữ Nôm lại biết tiếng
Pháp, để lại những tác phẩm Hán Nôm nghiên cứu nhiều mặt khác nhau: lịch sử,
địa dư, văn hóa, văn học, chính trị, hành chính, luật pháp. Viện nghiên cứu
Hán Nôm lưu trữ nhiều sách trong số 49 tác phẩm
|
52.
|
Ao Đình
Ao Đình
là tên địa danh ao cá trước của Đình Xuân Thụ, khu phố Xuân Thụ, phường Đông
Ngàn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đây là tên địa danh cổ, đã gắn bó lâu
đời với nhân dân địa phương. Đây là tên địa danh
đã quen dùng từ xa xưa, ăn sâu trong tiềm thức của nhân dân địa
phương.
|
53.
|
Lý Quốc Mẫu
Tức Minh Đức Hoàng Thái hậu Phạm Thị Ngà, là
mẹ của vua Lý Thái Tổ. Bà từng giúp việc ở chùa Thiên Tâm, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Chùa Tiêu là nơi Thiền sư Lý Vạn Hạnh người làng Cổ Pháp trụ trì. Bà là người
có công sinh ra vua Lý Công Uẩn (tức vua Lý Thái Tổ). Thuở nhỏ, Lý Công Uẩn rất
khôi ngô, chăm học, từng làm Tiểu ở chùa Ứng Tâm. Ông đã đọc hết sách ở nhà
chùa và được Lý Vạn Hạnh ra công dạy dỗ.
Lớn lên, ông làm quan cho Nhà Tiền Lý đến chức
Tả thân vệ Chỉ huy sứ. Tháng 10 năm Kỷ Dậu (1009), Vua Lê Long Đĩnh mất. Con
trai Lê Long Đĩnh còn bé nên Triều đình đã suy tôn Lý Công Uẩn lên làm Vua,
sáng lập ra Triều Lý. Tháng 10 năm 1010, ông ra chiếu dời đô từ Hoa Lư đến Đại
La, và sau đó đổi tên thành Đại La thành Kinh đô Thăng Long (Hà Nội ngày
nay). Ông đã cùng Triều Lý làm rạng danh nước Đại Việt. Mẹ ông - bà Phạm Thị
Ngà được suy tôn làm Minh Đức Hoàng Thái Hậu.
|
54.
|
Nghìn Việc Tốt
Tên phong trào Nghìn Việc Tốt, thuộc phường Tam
Sơn, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Anh hùng Lao động, nhà giáo nhân dân Nguyễn Đức
Thìn là người đã khởi xướng hoạt động “Thắp sáng ngọn đèn Ngô Gia Tự” năm
1961, sáng kiến phát động phong trào “Nghìn việc tốt” năm 1963 và gắn bó với
tuổi trẻ nhiều miền đất nước “Theo Đảng chúng ta đi”. Phong trào “Nghìn việc
tốt” là những cách làm hay, sáng tạo, hoạt động thiết thực trong học tập, lao
động và đời sống hàng ngày mà các thiếu nhi tại các trường học có thể phát
huy nhân rộng, thực hiện “5 điều Bác Hồ dạy”, để phong trào” Nghìn việc tốt”
trở thành nét đẹp hằng ngày, mọi lúc, mọi nơi./.
|