Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CAO LÃNH, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP XIN LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 24 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Cao Lãnh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 328/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2011 về việc “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn và nuôi con”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Nguyễn Thanh H, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Khóm M, thị trấn M1, huyện C, tỉnh Đồng Tháp.

- Bị đơn: Lê Thị Thu C, sinh năm 1971;

Địa chỉ: Khóm M, thị trấn M1, huyện C, tỉnh Đồng Tháp. (Các đương sự đều có mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và tại phiên tòa nguyên đơn anh Nguyễn Thanh H trình bày:

Anh và chị C chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M1, huyện C, tỉnh Đồng Tháp ngày 01/4/2009. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau rất hạnh phúc nhưng thời gian gần đây thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng về quan điểm sống, mặc dù vợ chồng đã cho nhau nhiều lần để hàn gắn tình cảm nhưng không được. Vợ chồng đã ly thân từ ba năm nay. Nay do tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh H yêu cầu được ly hôn với chị C.

- Về con chung: Vợ chồng có con chung tên Nguyễn Lê Hữu D, sinh ngày 11/8/2009, hiện đang sống chung với vợ chồng. Khi ly hôn, anh H đồng ý giao con chung cho chị C nuôi dưỡng, anh đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định pháp luật.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ.

Tại biên bản hòa giải và tại phiên tòa bị đơn chị Lê Thị Thu C trình bày:

Chị thống nhất với nội dung trình bày của anh Nguyễn Thanh H về thời gian chung sống và vợ chồng có đăng ký kết hôn. Tuy nhiên, chị C cho rằng cuộc sống vợ chồng chị không có mâu thuẫn gì trầm trọng nên chị không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của anh H.

- Về con chung: Vợ chồng có con chung tên Nguyễn Lê Hữu D, sinh ngày 11/8/2009, hiện đang sống chung với vợ chồng. Nếu ly hôn, chị C yêu cầu được tiếp nuôi dưỡng con chung, yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

photo).

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ ai và cũng không cho ai nợ.

* Các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án:

- Giấy chứng nhận kết hôn (bản sao);

- Giấy chứng minh nhân dân, sổ hộ khẩu của anh H và chị C (bản - Giấy khai sinh con chung (bản sao) - Văn bản ý kiến con chung (bản chính) * Các tình tiết, sự kiện trong vụ án các bên đương sự thống nhất: Các tài liệu, chứng cứ do các bên cung cấp.

* Các tình tiết vụ án các bên đương sự không thống nhất: Chị C không đồng ý ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật, Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ vào đơn yêu cầu ly hôn của anh Nguyễn Thanh H về việc yêu cầu được ly hôn với chị Lê Thị Thu C nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật của vụ án này là “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình - xin ly hôn và nuôi con”.

[2] Về thẩm quyền, Hội đồng xét xử xét thấy: Tranh chấp về hôn nhân và gia đình về việc xin ly hôn và nuôi con giữa các đương sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Bị đơn hiện nay đang cư trú tại khóm M, thị trấn M, huyện C, nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về tố tụng: Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

19/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/3/2022 thì Thư ký chính thức là ông Nguyễn Tấn Lợi, thư ký dự khuyết là bà Nguyễn Thị Thanh Hòa. Tuy nhiên, tại phiên tòa hôm nay do ông Lợi, bà Hòa bận đi công tác nên thay thế thư ký là bà Nguyễn Trần Ngọc Thảo. Các đương sự thống nhất việc thay đổi này và không yêu cầu thay đổi ai trong những người tiến hành tố tụng. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[4] Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xét thấy:

Về hôn nhân, anh H và chị C đều thừa nhận chung sống với nhau như vợ chồng vào năm 2008 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn M, huyện C, tỉnh Đồng Tháp nên hôn nhân giữa anh H và chị C là hợp pháp. Thời gian đầu vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc, nhưng một thời gian sau thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do anh H không còn tình cảm yêu thương chị C. Tại phiên tòa, anh H xác định hiện nay, anh không có tình cảm và cảm xúc yêu thương đối với phụ nữ. Chị C hay ghen tuông và xúc phạm danh dự anh nên anh không thể chung sống hạnh phúc cùng chị C.

Nay anh H xác định do tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh H yêu cầu được ly hôn với chị C là có căn cứ, bởi lẽ:

Tại phiên tòa, chị C thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bất đồng về quan điểm trong cuộc sống, chị C cũng thừa nhận vợ chồng đã sống ly thân gần một năm nay và anh H không còn yêu thương, quan tâm đến chị. Tuy nhiên, chị C cho rằng mình vẫn còn thương anh H, chị mong muốn vợ chồng hàn gắn tình cảm để chung sống vì con nên chị không đồng ý ly hôn. Nhưng chị C không đưa ra được biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng và anh H cũng không đồng ý hàn gắn tình cảm với chị C. Từ đó, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa anh H và chị C đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên việc anh H yêu cầu được ly hôn với chị C là phù hợp nên chấp nhận.

- Về con chung: Vợ chồng có con chung tên Nguyễn Lê Hữu D, sinh ngày 11/8/2009, hiện đang sống chung với vợ chồng. Khi ly hôn, anh H đồng ý giao con cho chị C nuôi dưỡng, chị C cũng yêu cầu được nuôi con. Tại văn bản ý kiến của con chung Nguyễn Lê Hữu D có nguyện vọng được sống với mẹ, nên để đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần cho cháu, Hội đồng xét xử chấp nhận để chị C quyền tiếp tục nuôi con chung.

- Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Khi ly hôn, chị C yêu cầu được nuôi con chung và yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con. Anh H đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật cho đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Anh H có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Anh H và chị C thống nhất không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[5] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

Anh H phải chịu 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn và 300.000đ án phí hôn nhân gia đình về cấp dưỡng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh H đã nộp theo biên lai số 0007025 ngày 01/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Anh H còn phải nộp tiếp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 9, 51, 56, 81; 82; 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của anh Nguyễn Thanh H.

- Về hôn nhân: Anh Nguyễn Thanh H được ly hôn với chị Lê Thị Thu C.

- Về con chung: Công nhận sự thỏa thuận về việc nuôi con chung giữa anh Nguyễn Thanh H và chị Lê Thị Thu C.

Chị Lê Thị Thu C được tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Lê Hữu D, sinh ngày 11/8/2009.

Anh Nguyễn Thanh H đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng là 1/2 tháng lương cơ sở tại từng thời điểm, thời điểm cấp dưỡng được tính từ tháng 4 năm 2022 đến khi con chung đủ 18 tuổi.

Anh Nguyễn Thanh H có quyền và nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung, không ai được quyền ngăn cản.

- Về tài sản chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Anh Nguyễn Thanh H phải chịu 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm về ly hôn và 300.000đ án phí hôn nhân gia đình về cấp dưỡng nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà anh H đã nộp theo biên lai số 0007025 ngày 01/11/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh Đồng Tháp. Anh H còn phải nộp tiếp số tiền 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

Các đương sự được quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

128
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp xin ly hôn và nuôi con số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cao Lãnh - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về