Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DUYÊN HẢI, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON

Trong ngày 28 tháng 4 năm 2022, tại phòng xử án Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 25/2022/TLST- HNGĐ ngày 23 tháng 02 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn và nuôi con” theo Quyết định hoãn phiên toà số: 40/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Phan Thị C, sinh năm 1985 (Có mặt) Địa chỉ: Khóm A, thị trấn L, huyện D, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Ông Trương Hoàng Phú Q, sinh năm 1985 (Vắng mặt) Địa chỉ: Ấp B, xã L, thị xã D, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22 tháng 02 năm 2022 và trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn bà Phan Thị C đã trình bày như sau:

- Về hôn nhân: Bà và ông Trương Hoàng Phú Q tự nguyện tiến tới hôn nhân và đăng ký kết hôn ngày 06/10/2010 tại UBND xã L. Trong thời gian chung sống vợ chồng bà xảy ra mâu thuẫn vào năm 2014. Nguyên nhân là do vợ chồng bà bất đồng quan điểm trong công việc và cuộc sống hàng ngày. Mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nhiều. Từ đó vợ chồng sống ly thân. Nay Bà C cho rằng không còn tình cảm với ông Q nên yêu cầu được ly hôn ông Q.

- Về con chung: Bà C khai bà và ông Q có con chung là Trương Hoàng Q Đ, sinh ngày 21/10/2011. Con hiện bà đang nuôi nên yêu cầu được quyền tiếp tục nuôi con, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Bà C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Bà C khai vợ chồng bà không có nợ chung.

Bị đơn ông Trương Hoàng Phú Q đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án nhưng không nộp văn bản nêu ý kiến của bị đơn về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án cũng không lấy được lời khai của bị đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Kiểm sát viên phát biểu ý kiến tại phiên tòa như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án, Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định pháp luật.

- Việc tuân theo pháp luật của Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử: Thư ký phiên tòa và Hội đồng xét xử có mặt tại Tòa đã thực hiện đúng các thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

- Đối với việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình. Tại phiên tòa, nguyên đơn có mặt chấp hành tốt nội quy phiên tòa.

- Về nội dung vụ án:

+ Về hôn nhân: Căn cứ tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, Kiểm sát viên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phan Thị C.

+ Về con chung: Vị Kiểm sát viên đề nghị giao con chung là Trương Hoàng Q Đ, sinh ngày 21/10/2011 cho bà Phan Thị C nuôi dưỡng theo nguyện vọng của con.

+ Về cấp dưỡng nuôi con: Bà C không có yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

+ Về tài sản chung: Bà C không có yêu cầu chia tài sản chung, còn ông Q chưa có ý kiến về tài sản chung của vợ chồng nên đề nghị không xem xét.

+ Về nợ chung: Bà C khai bà và ông Q không có nợ chung; ông Q cũng chưa có ý kiến về nợ chung nên đề nghị không xem xét.

+ Về án phí: Nguyên đơn Bà C phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

- Về kiến nghị khắc phục: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: bà Phan Thị C khởi kiện yêu cầu ly hôn anh Trương Hoàng Phú Q và yêu cầu giải quyết việc nuôi con giữa Bà C và anh Q. Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: Bị đơn ông Trương Hoàng Phú Q có hộ khẩu thường trú tại ấp B, xã L, thị xã D, tỉnh Trà Vinh. Căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân thị xã Duyên Hải, tỉnh Trà Vinh có thẩm quyền giải quyết vụ án.

[3] Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Trương Hoàng Phú Q là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét ý kiến của nguyên đơn và Kiểm sát viên tại phiên tòa và căn cứ quy định tại các Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt ông Trương Hoàng Phú Q.

[4] Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị C và ông Trương Hoàng Phú Q tự nguyện tiến tới hôn nhân và có đăng ký kết hôn ngày 06/10/2010 tại UBND xã L theo đúng quy định pháp luật. Vì vậy, hôn nhân của Bà C và ông Q là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Theo Bà C trong thời gian chung sống, giữa bà và ông Q có xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm trong công việc và cuộc sống. Kết quả xác minh của Tòa án thể hiện không rõ là giữa Bà C và ông Q có mâu thuẫn gì nhưng thực tế là ông Q và Bà C đã ly thân. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tổ chức hòa giải tạo điều kiện để Bà C và ông Q đoàn tụ tiếp tục chung sống nhưng Bà C vẫn cương quyết ly hôn ông Q. Còn ông Q không đến Tòa án dự phiên họp hòa giải. Khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, Bà C vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện. Hội đồng xét xử thấy rằng vợ chồng muốn được hạnh phúc là phải cùng yêu thương nhau, cùng chung sống và cùng mong muốn xây đắp gia đình hạnh phúc. Tuy nhiên sau khi Tòa án tổ chức hòa giải, Bà C một mực cương quyết yêu cầu ly hôn ông Q vì cho rằng không còn tình cảm với ông Q và không muốn tiếp tục chung sống với ông Q. Điều này cho thấy khả năng để Bà C và ông Q đoàn tụ để chung sống là rất khó thực hiện được. Bà C và ông Q hiện tại đang sống ly thân. Từ đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phan Thị C như đề nghị của vị Kiểm sát viên.

[5] Về nuôi con: Bà Phan Thị C và ông Trương Hoàng Phú Q có con chung là Trương Hoàng Q Đ, sinh ngày 21/10/2011. Cháu Đ hiện đang sống chung với Bà C và có nguyện vọng được tiếp tục chung sống với Bà C. Sau khi xem hết các điều kiện nuôi con của Bà C, Hội đồng xét xử thấy giao cháu Đ cho bà Phan Thị C tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp nguyện vọng của con, đúng quy định pháp luật, đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho con.

[6] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Bà Phan Thị C là người được giao nuôi con chung nhưng không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét. Sau khi ly hôn, bà Phan Thị C có quyền yêu cầu ông Trương Hoàng Phú Q cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của pháp luật.

[7] Về tài sản chung: Bà C không có yêu cầu chia tài sản chung; ông Q chưa có ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[8] Về nợ: Bà C khai bà và ông Q không có nợ chung; ông Q cũng chưa có ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[9] Về án phí: Bà C không thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí hoặc không phải nộp án phí. Vì vậy, Bà C là nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147, Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, khoản 1 Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Q hội về quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phan Thị C. Bà Phan Thị C được ly hôn ông Trương Hoàng Phú Q.

2. Về con chung: Giao cháu Trương Hoàng Q Đ, sinh ngày 21/10/2011 cho bà Phan Thị C tiếp tục trông nom, nuôi dưỡng và giáo dục theo nguyện vọng của con.

Không ai được quyền cản trở bà Phan Thị C trong việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Trương Hoàng Q Đ, cũng như cản trở ông Trương Hoàng Phú Q thăm nom con chung.

Vì lợi ích của cháu Trương Hoàng Q Đ, khi cần thiết và có yêu cầu của ông Trương Hoàng Phú Q hoặc cá nhân, tổ chức được pháp luật quy định, Tòa án sẽ xem xét giải quyết thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

Nếu ông Trương Hoàng Phú Q lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con thì bà Phan Thị C có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế việc thăm nôm con của ông Trương Hoàng Phú Q theo quy định pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Bà Phan Thị C không yêu cầu ông Trương Hoàng Phú Q cấp dưỡng nuôi cháu Trương Hoàng Q Đ nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, bà Phan Thị C có quyền yêu cầu ông Trương Hoàng Phú Q cấp dưỡng nuôi cháu Trương Hoàngg Q Đ theo quy định pháp luật.

4. Về tài sản chung: Bà C không có yêu cầu chia tài sản chung; ông Q chưa có ý kiến về tài sản chung nên không xem xét.

Sau khi ly hôn, nếu bà Phan Thị C và ông Trương Hoàng Phú Q có tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân thì Bà C hoặc ông Q có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

5. Về nợ: Bà C khai bà và anh Q không có nợ chung; ông Q cũng chưa có ý kiến về nợ chung nên không xem xét.

6. Về án phí: Buộc bà Phan Thị C chịu án dân sự sơ thẩm (ly hôn) là 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số: 0008173 ngày 22 tháng 02 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Duyên Hải. Như vậy, bà Phan Thị C đã nộp xong án phí. Ông Trương Hoàng Phú Q không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

7. Nguyên đơn bà Phan Thị C có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn ông Trương Hoàng Phú Q vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể được tống đạt hợp lệ bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

252
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn và nuôi con số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Duyên Hải - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về