Bản án về tranh chấp ly hôn số 888/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN GÒ VẤP - THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 888/2021/HNGĐ-ST NGÀY 15/12/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 15 tháng 12 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Gò Vấp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 435/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 4 năm 2021 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 161/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 10 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 157/2021/QĐHPT-ST ngày 17 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Dương Phi Bảo N, sinh năm: 1992, địa chỉ cư trú: Đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (Có mặt).

2.Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn T, sinh năm: 1994, địa chỉ cư trú: Đường D, Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 07/4/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn: Bà N trình bày: Bà và ông T sống chung với nhau từ năm 2017, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh. Hạnh phúc gia đình kéo dài đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho nhau. Bà không còn tình cảm nên không thể tiếp tục sống chung với ông T. Bà đã suy nghĩ kỷ và đã ly thân nên yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết cho bà ly hôn với ông T.

Về con chung: Có 01 con chung tên là Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày:

01/02/2018 do bà trực tiếp nuôi dưỡng và không yêu cầu ông T phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên yêu cầu được ly hôn ông T, trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày: 01/02/2018 đến tuổi trưởng thành, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Ngoài ra, nguyên đơn xác định đã cung cấp đầy đủ chứng cứ cho Hội đồng xét xử, không còn cung cấp thêm chứng cứ nào khác.

Do ông T đã được tống đạt các văn bản tố tụng nhưng ông T không đến Tòa nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định của pháp luật.

Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Gò Vấp:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán: Thẩm phán được phân công thụ lý giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 48 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Cụ thể như sau: Thụ lý vụ án đúng thẩm quyền, xác định đúng quan hệ tranh chấp; tống đạt cho các đương sự đúng quy định pháp luật; tiến hành phiên hòa giải đúng quy định tại Điều 208; thời hạn chuẩn bị xét xử đúng quy định tại Điều 203; quyết định đưa vụ án ra xét xử được thực hiện đúng theo quy định tại Điều 220 và chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nghiên cứu đảm bảo thời hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Việc tuân theo pháp luật của Hội đồng xét xử: Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về phiên toà sơ thẩm.

Về chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng các quy định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn chưa thực hiện đúng theo quy định tại Điều 70, 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Nguyên đơn chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và lời trình bày của đương sự tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu quan điểm về vụ án, Tòa án nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền của Tòa án: Đây là vụ án tranh chấp “Ly hôn” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Bị đơn cư trú tại số: Đường D, Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về người tham gia tố tụng: Do đương sự: Ông Tài vắng mặt lần thứ hai tại phiên tòa, vì vậy căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt đối với đương sự nêu trên.

[2]. Xét yêu cầu của các đương sự: Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà N thấy rằng. Căn cứ vào giấy chứng nhận kết hôn số: 68 ngày 21/6/2017 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh thể hiện hôn nhân giữa bà Dương Phi Bảo N và ông Nguyễn Tấn T là hợp pháp nên phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ, chồng theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình.

Căn cứ vào kết quả xác minh ngày 18/5/2021 của Hội liên hiệp phụ nữ Phường B, quận C thì bà N và ông T có mâu thuẫn vợ chồng.

Bà N và ông T sống chung với nhau từ năm 2017 nhưng do tính tình không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không còn quan tâm, lo lắng, chăm sóc cho nhau. Bà N và ông T đã ly thân, việc cố gắng hàn gắn tình cảm vợ chồng không có kết quả, mục đích hôn nhân không đạt được chỉ tồn tại về mặt pháp lý, không còn tồn tại trên thực tế, Hội đồng xét xử nhận thấy yêu cầu của bà N là phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 nên chấp nhận. Hơn nữa, mặc dù ông T đã được Tòa án triệu tập, niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng hoàn toàn không có ý kiến gì đối với việc bà N yêu cầu ly hôn cho thấy ông T không còn quan tâm đến việc duy trì quan hệ vợ chồng với bà N nên khả năng đoàn tụ gia đình là không có.

Về con chung: Căn cứ vào trích lục khai sinh số: 101/TLKS-BS ngày 10/02/2018 của Ủy ban nhân dân Phường E, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh đã xác định được bà N và ông T có con chung tên là Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày: 01/02/2018.

Bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi con Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày: 01/02/2018 đến tuổi trưởng thành và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con. Xét yêu cầu nuôi con của bà N: Do trẻ Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày: 01/02/2018 vẫn còn nhỏ nên cần sự chăm sóc của mẹ hơn nên Hội đồng xét xử nhận thấy việc giao trẻ Hân cho bà N nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành là thỏa đáng và có cơ sở phù hợp với các quy định của pháp luật về Hôn nhân và Gia đình.

Do bà N không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông T cho đến khi bà N có yêu cầu.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

Về án phí Tòa án: Bà N phải chịu 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 5, Điều 21, khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ vào Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Luật thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014;

Căn cứ vào Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Bà Dương Phi Bảo N.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Dương Phi Bảo N được ly hôn ông Nguyễn Tấn T.

Giấy giấy chứng nhận kết hôn số: 68 ngày 21/6/2017 của Ủy ban nhân dân Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh hết hiệu lực.

Về con chung: Bà N là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên là Nguyễn Cát Khả H, sinh ngày: 01/02/2018. Tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho ông T cho đến khi bà N có yêu cầu.

Ông T có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở, tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Trên cơ sở lợi ích của con, cha, mẹ, người thân thích; cơ quan quản lý nhà nước về gia đình, cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi cần thiết đương sự có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

2. Về án phí Tòa án: Bà N phải chịu 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng theo biên lai thu số: AA/2019/0028341 ngày 20/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Gò Vấp. Bà N đã nộp xong án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự (Sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự (Sửa đổi, bổ sung năm 2014).

3.Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn là 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày được tống đạt hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

132
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 888/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:888/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Gò Vấp - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/12/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về