Bản án về tranh chấp ly hôn số 25/2022/HN-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN C R, THÀNH PHỐ C T

BẢN ÁN 25/2022/HN-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 24/06/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận C R, thành phố C T tiến hành xét xử công khai vụ án thụ lý số: 77/2022/TLST- HN ngày 10 tháng 5 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 317/2022/QĐST-HN ngày 02/06/2022, giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Bà Đỗ T U, sinh năm 1982. (Có mặt) Nơi cư trú: 108 khu vực 2, phường Ba Láng, quận C R, thành phố C T.

* Bị đơn: Ông Nguyễn X T, sinh năm 1980. (Có mặt) Nơi cư trú: 108 khu vực 2, phường Ba Láng, quận C R, thành phố C T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai của nguyên đơn – bà Đỗ T U trình bày:

Về hôn nhân: Vào năm 2003, do sự mai mối từ hai bên gia đình, sau đó bà và ông Nguyễn X T tự nguyện tiềm hiệu một thời gian ngắn rồi tiến tới hôn nhân có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Phú Thạnh, huyện C T A, thành phố C T (cũ) - Nay là phường Ba Láng, quận C R, thành phố C T vào ngày 04/07/2003. Theo bà U trình bày, bà và ông T chung sống hạnh phúc khoảng 10 năm đầu thì phát sinh mâu thuẫn kéo dài. Nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do ông T có quan hệ tình cảm bất chính với người phụ nữ khác nhiều lần, bà cũng tha thứ nhưng thời gian qua ông T không thấy được lỗi của mình mà để thay đổi. Ngoài ra, trong cuộc sống ông T còn có hành vi bạo hành, hăm dọa, sút phạm uy tính, danh dự bà. Nay bà thấy cuộc sống vợ chồng không có tiếng nói chung, không còn sự quan tâm chia sẻ trong cuộc sống, cả hai cũng đã có thời gian ly thân được một thòi gian nên yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn X T.

Về con chung: Theo bà U trình bày trong quá trình chung sống bà và ông T có 02 con chung tên Nguyễn X N N (Nữ), sinh ngày 29/6/2004 và Nguyễn X T P (Nam), sinh ngày 21/7/2013. Khi ly hôn thì bà yêu cầu được nuôi 02 con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi 02 con chung với mức cấp dưỡng 3.00.000đ/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp giải quyết thành vụ kiện khác.

Về nợ chung: Không có.

* Phía bị đơn ông Nguyễn X T trình bày:

Về hôn nhân: Theo ông T trình bày về thời gian tìm hiểu, tiến đến hôn nhân và nguyên nhân mâu thuẫn thì giống như bà U trình bày. Do tính tình của ông có ham vui này kia bên ngoài nhưng vẫn luôn thương yêu vợ con, nay ông cũng hối hận về việc làm của mình và muốn sữa chữa sai lầm để đem đến hạnh phúc cho vợ con. Đối với việc bà U yêu cầu ly hôn thì ông không đồng ý vì ông vẫn còn thật lòng thương vợ và muốn các con có gia đình trọn ven, hạnh phúc.

Về con chung: Có 02 con chung giống như bà U đã trình bày. Nếu Toà án giải quyết ly hôn thì ông cũng thống nhất giao các con cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng và đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu giải quyết. Nếu sau này có tranh chấp giải quyết thành vụ kiện khác.

Về nợ chung: Không có.

Vụ án đã được Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành nên phải đưa vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Đỗ T U vẫn giữ nguyên nội dung đơn khởi kiện. Đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn với ông T vì hiện nay tình cảm, lòng tin đã không còn, cả hai đã ly thân một thời gian. Về con chung thì được nuôi các con chung và yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung với số tiền 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con), tài sản chung tự thỏa thuận và nợ chung không có.

Bị đơn ông Nguyễn X T xác định: Đối với yêu cầu ly hôn của bà U thì không đồng ý vì tình cảm vẫn còn, yêu cầu Hội đồng xét xử tạo điều kiện cho ông sữa chữa sai lầm để vợ chồng được đoàn tụ, các con có một gia đình trọn vẹn. Về con chung trong trường hợp phải giải quyết ly hôn thì ông thống nhất giao các con cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng và tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) cho đến khi các con đủ 18 tuổi. Tài sản chung thì vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết và nợ chung không có.

Đại diện Viện kiểm sát có ý kiến nhận xét về quá trình tuân theo quy định của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, thư ký và ý kiến về đường lối giải quyết vụ án: Về thẩm quyền thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách tham gia tố tụng Tòa án xác định là đúng theo quy định, vụ kiện thụ lý là đúng thẩm quyền, việc tiến hành thủ tục xét xử của Tòa án cho đến giai đoạn hiện nay là phù hợp. Về đường lối giải quyết vụ án thì đại diện kiểm sát đề nghị như sau:

Về hôn nhân: Qua các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án xác định mâu thuẫn vợ chồng là có, hiện nay của cả hai không có tiếng nói chung, không còn sự quan tâm chia sẻ trong cuộc sống và cả hai đã ly thân nếu kéo dài sẻ ảnh hưởng đến cả hai. Do đó, đề nghị chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Út.

Về con chung: Theo bà U trình bày hiện nay hai con chung đang ở với bà và tại bản tự khai hai con cũng có nguyện vọng ở chung với mẹ. Do đó đề nghị giao cháu Nguyễn X N Nvà Nguyễn X T P cho bà U tiếp tục nuôi dưỡng để đảm bảo điều kiện sống, hoàn cảnh sống và tâm sinh lý cho con, ghi nhận việc ông T tự nguyện cấp dưỡng nuôi con 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Bà Đỗ T U và ông Nguyễn X T tự nguyện tìm hiểu rồi tiến tới hôn nhân, có đăng ký kết hôn nên được xem là hôn nhân hợp pháp. Khi phát sinh tranh chấp thì các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết và quan hệ này được Luật hôn nhân gia đình điều chỉnh, tranh chấp giữa các đương sự thuộc quan hệ “Tranh chấp ly hôn”. Mặc khác, bị đơn ông Nguyễn X T có địa chỉ đăng ký hộ khẩu thường trú, tạm trú tại quận C R, thành phố C T nên vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận C R theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà U và ông T tự nguyện tiến tới hôn nhân, thờii gian đầu chung sống hạnh phúc về sau thì mâu thuẫn phát sinh. Theo bà Út, mâu thuẫn chủ yếu là ông T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác nhiều lần, bà đã tha thứ nhưng không thay đổi dẫn đến vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không còn sự tin tưởng, tin yêu trong cuộc sống hôn nhân. Ngoài ra, ông T còn có tính gia trưởng, ham chơi không chăm lo gia đình, trong quá trình vợ chồng mâu thuẫn ông T đã xúc phạm đến danh dự, nhân phẩm và đe doạ, uy hiếm tinh thần đối với bà. Bên cạnh đó, vợ chồng đã ly thân một thời gian nên dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, cả hai không có sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống. Mặc dù, bà nhiều tạo điều kiện và cho ông T nhiều cơ hội để hàn gắn, sửa đổi nhưng không mang lại kết quả, nay thấy tình cảm không còn nên có đơn yêu cầu giải quyết ly hoân vôùi ông Nguyễn X T. Theo ông T xác định mâu thuẫn giữa vợ chồng là có nhưng chưa trầm trọng để ly hôn, hiện nay đối với những sai lầm mà ông gây ra thì ông rất hối hận, cam kết sẽ sửa đổi và tình cảm đối với vợ vẫn còn vì vậy đề nghị Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà U mà tạo điều kiện cho đoàn tụ để con cái có gia đình trọn vẹn. Mâu thuẫn này mặc dù đã được Tòa án tạo điều kiện hòa giải hàn gắn, đoàn tụ gia đình trước khi đưa vụ án ra xét xử cũng như tại phiên tòa nhưng ông, bà cũng không đoàn tụ được.

Nhận thấy, việc tiến tới hôn nhân của cả hai là tự nguyện nên việc đoàn tụ cũng phải xuất phát từ tình cảm, sự tự nguyện của hai bên. Tại phiên tòa, bà U xác định sự tin tưởng lẫn tình cảm đối với ông T không còn nên kiên quyết ly hôn không đồng ý đoàn tụ, ông T xác định tình cảm còn nên muốn đoàn tụ để có gia đình trọn vẹn. Quan hệ hôn nhân phải xuất phát từ tình cảm, tình yêu, sự số gắng… từ hai phía mới có sự xây dựng, vun đắp, duy trì,… một gia đình hạnh phúc. Qua trình bày của các đương sự thì xác định mâu thuẫn cảu cả hai đã có và đã thật sự trầm trọng, cả hai không còn tiếng nói chung, trong quá trình hòa giải tòa án cũng tạo điều kiện cho vợ chồng đoàn tụ nhưng bản thân ông T cũng không đưa ra giải pháp để đoàn tụ cụ thể cho bà U có sự tin tưởng. Tại phiên tòa, cả hai xác định hiện nay cũng đã ly thân, không còn sự quan tâm, chia sẻ trong cuộc sống. Theo bà Út, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, nếu duy trì hôn nhân sẻ ảnh hưởng đến cuộc sống của cả hai cũng như hai con. Vì vậy, đối với yeâu caàu giải quyết ly hoân cuûa bà U là có cơ sở nên chấp nhận.

[4] Về con chung:

Các bên xác định trong quá trình chung sống có 02 con chung tên Nguyễn X N N (Nữ), sinh ngày 29/6/2004 và Nguyễn X T P (Nam), sinh ngày 21/7/2013. Đối với cháu N N và cháu T P đã trên 07 tuổi, trong quá trình giải quyết vụ án Toà án cũng đã hỏi nguyện vọng của các con thì các con xác định được tiếp tục ở với mẹ. Tại phiên tòa, ông T xác định nếu phải ly hôn thì đồng ý giao hai con cho bà U trực tiếp nuôi dưỡng. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy việc giao hai con cho bà U tiếp tục nuôi dưỡng là có cơ sở chấp nhận. Việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng là trách nhiệm của người không trực tiếp nuôi dưỡng, bà U yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi hai con mỗi con 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) và ông T cũng đồng ý mức cấp dưỡng này khi phải giải quyết ly hôn nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung: Các bên xác định tự thoả thuận, không yêu cầu xem xét. Nếu sau này có tranh chấp thì giải quyết thành vụ kiện khác.

[6] Về nợ chung: Không có.

[7] Về án phí sơ thẩm:

Nguyên đơn phải nộp án phí Hôn nhân và Gia đình và bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung theo Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 238, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Điều 19, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội khóa 14 quy định về mức thu, miễm, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Đỗ T U.

- Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu giải quyết ly hôn của bà Đỗ T U đối với ông Nguyễn X T.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn X N N (Nữ), sinh ngày 29/6/2004 và Nguyễn X T P (Nam), sinh ngày 21/7/2013. Giao cháu N N và cháu T P cho bà Đỗ T U trực tiếp nuôi dưỡng và ghi nhận việc ông Nguyễn X T đồng ý cấp dưỡng nuôi con chung 3.000.000 đồng/tháng/con (Ba triệu đồng trên tháng trên con) cho đến khi các con đủ 18 tuổi.

Dành quyền thăm nom, chăm sóc giáo dục con chung cho ông Nguyễn X T không ai được quyền ngăn cản.

Vì lợi ích mọi mặt của con, các bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án đặt ra xem xét, giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp thì giải quyết thành vụ kiện khác.

- Về nợ chung: Không có.

- Về án phí: Nguyên đơn phải nộp án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng), chuyển tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án mà nguyên đơn đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 008376 ngày 05/05/2022 của Chi cục thi hành án dân sự quận C R, thành phố C T thành án phí. Bị đơn phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con chung 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự được quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; Điều 7a, 7b Luật sửa đổi bổ sung một số điều Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

121
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 25/2022/HN-ST

Số hiệu:25/2022/HN-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Cái Răng - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về