Bản án về tranh chấp ly hôn số 151/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 151/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/09/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 28 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, xét xử vụ án Hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số 735/2022/HNST ngày 14 tháng 7 năm 2022 về việc: “Tranh chấp ly hôn”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 126/2022/QĐXX - ST ngày 26 tháng 8 năm 2022; Quyết định hoãn phiên Tòa ngày 12-9-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hồng T - sinh năm 1979 Địa chỉ: Phòng 703 - Chung cư Lakeside B, trung tâm Chí Linh, phường Nguyễn N, thành phố X, tỉnh Z (có đơn xin vắng mặt).

- Bị đơn: Chị Võ Thị An P - sinh năm 1979 Địa chỉ: Phòng 703 - Chung cư Lakeside B, trung tâm Chí Linh, phường Nguyễn N, thành phố X, tỉnh Z (vắng mặt đến lần thứ hai).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và quá trình làm việc tại Tòa, anh Nguyễn Hồng T có những yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

Anh Nguyễn Hồng T và chị Võ Thị An P tìm hiểu nhau khoảng 02 đến 03 năm, đến năm 2006, đi đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ninh Hòa, huyện Ninh Hòa, tỉnh K, trên cơ sở tự nguyện.

Quá trình chung sống anh T, chị P có với nhau 02 người con là Nguyễn Vũ A, sinh ngày 24-10-2007 và Nguyễn Việt B, sinh ngày 30-10-2013.

Anh T cho biết thời gian đầu sau khi kết hôn cuộc sống gia đình anh T, chị P hạnh phúc, đến năm 2013, thì phát sinh mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không hòa hợp, mâu thuẫn kéo dài. Nguyên nhân mâu thuẫn anh T cho biết chị P có những khoản nợ vay không biết sử dụng vào việc gì dẫn đến anh T phải khắc phục, nhiều lần bỏ nhà đi không chăm lo cho cuộc sống gia đình.

Đến năm 2015, anh T, chị P từng nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân thành phố X yêu cầu giải quyết ly hôn, do anh T, chị Phi muốn đoàn tụ xây dựng cuộc sống hôn nhân, nên anh T đã rút đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân thành phố X đình chỉ vụ án; theo Quyết định số 239/2015/QĐST-ĐC, ngày 28-12-2015.

Nay anh T cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc nên yêu cầu Tòa án giải quyết những yêu cầu sau:

Về hôn nhân: Yêu cầu được hôn với chị Võ Thị An P, sinh năm 1979; về con: Anh T, chị P có 02 con là Nguyễn Vũ A, sinh ngày 24-10-2007 và Nguyễn Việt B ,sinh ngày 30-10-2013; anh T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi hai con; về cấp dưỡng nuôi con, anh T không yêu cầu chị Phi cấp dưỡng nuôi con; về tài sản chung, nợ chung anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Võ Thị An P, được Tòa án nhân dân thành phố X mời nhiều lần tới Tòa giải quyết vụ án nhưng chị P vắng mặt nhiều lần không lý do; chị P không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh T.

Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố X phát biểu ý kiến:

[1] Về tố tụng: Thẩm phán đã chấp hành và thực hiện đúng nhiệm vụ quyền hạn quy định tại điều 48 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; tại phiên Tòa thư ký và hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định tại Điều 51,63 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Quá trình xét xử tuân thủ đúng trình tự quy định tại các điều: Điểm a khoản 2 Điều 227, 228,239,254 và Điều 262 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015.

Nguyên đơn anh T đã chấp hành và thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; bị đơn chị P không thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều: Điều 56, 57,81,82,83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về con: Anh Nguyễn Hồng T được quyền trực tiếp nuôi con Nguyễn Vũ A, sinh ngày 24-10-2007 và Nguyễn Việt B ,sinh ngày 30-10-2013;

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh T không yêu cầu nên không xem xét;

Về tài sản chung, nợ chung: Anh T không yêu cầu nên không xem xét;

Về án phí HNST: Anh Nguyễn Hồng T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại Tòa và ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu X; nhận định của Tòa án:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp ly hôn giữa nguyên đơn anh Nguyễn Hồng T và chị Võ Thị An P.

Các đương sự có hộ khẩu thường trú và hiện cư trú thành phố X, tỉnh Z, do đó vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố X; Căn cứ khoản 1 điều 28, điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ngày 12-9-2022, Tòa án nhân dân thành phố X đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm, bị đơn chị P được triệu tập hợp lệ vắng mặt không lý do; nay chị P vắng mặt đến lần thứ hai không vì trở ngại khách quan, vắng mặt không lý do; Hội đồng xét xử căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự quyết định xét xử vắng mặt bị đơn chị Võ Thị An P.

Nguyên đơn anh Nguyễn Hồng T có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; Hội đồng xét xử căn cứ điểm a, khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, quyết định xét xử vắng mặt nguyên đơn anh Nguyễn Hồng T.

Về nội dung:

[2] Ngày 18-10-2006, anh Nguyễn Hồng T và chị Võ Thị An P có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn Ninh Hòa, huyện Ninh Hòa, tỉnh K và chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, nên hôn nhân giữa anh T và chị P là đúng quy định của pháp luật.

Anh T cho rằng cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc vì tình cảm vợ chồng không còn do cuộc sống hôn nhân của anh T, chị P phát sinh nhiều mâu thuẫn; nguyên nhân anh T cho rằng chị P không chăm lo cho cuộc sống gia đình và vay, mượn tiền không biết sử dụng vào việc gì nhiều lần anh T phải khắc phục trả nợ nhiều năm nay, từ đó dẫn đến cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc,tình cảm vợ chồng, mục đích hôn nhân không đạt được.

Đối với bị đơn chị Võ Thị An P đã được Tòa án triệu tập nhiều lần tới Tòa để giải quyết vụ án, chị P vắng mặt không lý do và cũng không có ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh T, qua đó thấy được chị P cũng không muốn gia đình đoàn tụ.

Qua việc xác minh mâu thuẫn: Chính quyền địa phương nơi vợ chồng anh T, chị P cư trú, sinh sống cho biết; chị P, anh T cư trú, sinh sống từ năm 2015 cho đến nay. Thời gian gần đây gia đình anh T, chị P có xảy ra mâu thuẫn gia đình, nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn thì không rõ. Khoảng gần đây chị P thường xuyên vắng nhà, trước đây cũng có thời gian chị P bỏ nhà đi đâu không rõ, anh T là người chăm sóc hai con.

[3] Nhận định của Hội đồng xét xử: Mâu thuẫn giữa vợ chồng anh Nguyễn Hồng T và chị Võ Thị An P là có thật, như anh T và chính quyền nơi anh T, chị P cư trú, sinh sống cho biết. Năm 2015, anh T, chị P đã từng nộp đơn khởi kiện ra Tòa án nhân dân thành phố X yêu cầu giải quyết ly hôn, do anh T, chị P muốn đoàn tụ xây dựng cuộc sống hôn nhân, nên anh T đã rút đơn khởi kiện, Tòa án nhân dân thành phố X đình chỉ vụ án; theo Quyết định số 239/2015/QĐST-ĐC, ngày 28-12- 2015.

Hội đồng xét xử xét thấy; cuộc sống hôn nhân giữa anh T và chị P đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nhiều lần Tòa án nhân dân thành phố X mời chị P đến để hòa giải, giải quyết vụ án, nhưng chị P vắng mặt không lý do, cho thấy chị P không muốn gia đình đoàn tụ do đó có đủ căn cứ áp dụng Điều 56, Điều 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn anh T; anh Nguyễn Hồng T được ly hôn với chị Võ Thị An P.

Về con: Anh T, chị P có 02 người con tên là Nguyễn Vũ A, sinh ngày 24-10- 2007 và Nguyễn Việt B ,sinh ngày 30-10-2013; anh T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Hội đồng xét xử xét thấy hiện anh T là người đang trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng hai con. Qua xác minh chính quyền địa phương nơi anh T,chị P cư trú cho biết cuộc sống của cháu Nguyễn Vũ A và cháu Nguyễn Việt B hiện do anh T chăm sóc, do đó có đủ căn cứ chấp nhận yêu cầu của anh T; anh Nguyễn Hồng T được quyền trực tiếp nuôi con là Nguyễn Vũ A và Nguyễn Việt B.

Anh T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở chị P trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Chi P cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của anh T; các cứ các điều: Điều 81,82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung; anh T không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Án phí HNST: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; anh Nguyễn Hồng T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai thu số 00022880, ngày 13-7-2022, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X; anh T đã nộp xong án phí.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào : Khoản 1 Điều 28, Điều 35, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, điểm a khoản 1 Điều 238 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 56, 57, 81,82,83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14.

[1]Về hôn nhân tuyên xử: Anh Nguyễn Hồng T được ly hôn với chị Võ Thị An P.

[2]Về con tuyên xử: Giao con là Nguyễn Vũ A, sinh ngày 24-10-2007 và Nguyễn Việt B,sinh ngày 30-10-2013, cho anh Nguyễn Hồng T trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở chị P trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con. Chị P cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của anh T.

Quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định tại Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung; anh T không yêu cầu nên không xem xét.

[4]Án phí HNST: Anh Nguyễn Hồng T phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng); nhưng được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí anh T đã nộp theo biên lai thu số 0002880, ngày 13-7-2022, của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố X; anh Nguyễn Hồng T đã nộp xong án phí.

[5]Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc 15 ngày, tính từ ngày bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Z xét xử theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7,7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 151/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:151/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về