Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 232/2023/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 232/2023/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2023 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 8 năm 2023, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 454/2023/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 6 năm 2023 về việc tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 431/2023/QĐXXST-DS ngày 31 tháng 7 năm 2023 và Quyết định hoãn phiên tòa số 522/2023/QĐST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2023, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị D.H, sinh năm 1975; địa chỉ: khóm T, thị trấn P, huyện V, tỉnh An Giang, (có đơn xin vắng mặt).

Bị đơn: Ông Võ Thanh Đ, sinh năm 1980; địa chỉ: Số nhà 86, ấp M, xã H, huyện C, tỉnh An Giang, (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Căn cứ đơn khởi kiện, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn Nguyễn Thị D.H trình bày: bà và ông Võ Thanh Đ quen biết, tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, vợ chồng có tổ chức lễ cưới từ năm 2006 và đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 21/6/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện V, tỉnh An Giang. Thời gian chung sống được khoảng cuối năm 2022 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, vợ chồng không còn chung sống với nhau khoảng tháng 01 năm nay. Nhận thấy tình cảm không còn, nay bà yêu cầu ly hôn với ông Đ.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp: Bản sao, Giấy khai sinh con chung; Tờ tự khai và đơn khởi kiện ngày của ngày 22/6/2023; giấy chứng nhận kết hôn số 200/2013 (bản chính);

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành mở phiên hòa giải để động viên bà H, ông Đ xóa bỏ những bất đồng quan điểm, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng bà H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn với lý do ông Đ; ông Đ được triệu tập nhưng đều vắng mặt, không thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm với bà H. Vì vậy, Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án theo quy định.

Tại Biên bản xác minh do cán bộ Tòa án lập được Ủy ban nhân dân xã H, huyện C xác nhận thông tin ông Đ vẫn còn đăng ký cư trú tại ấp M, xã H và đại diện Ban ấp M cung cấp thông tin bà H và ông Đ đã không còn chung sống với nhau từ cuối năm 2022 đến nay; ông Đ đi làm xa nhưng vẫn thường xuyên về nhà.

Tại bản trình bày ý kiến của Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007 thể hiện nguyện vọng trường hợp cha mẹ ly hôn, cháu mong muốn được sống cùng mẹ.

Tại phiên tòa, bà H có đơn xin vắng, vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện xin ly hôn với ông Đ, nguyện vọng được nuôi dưỡng, chăm sóc các con chung; ông Đ vắng mặt nên không tiến hành hòa giải được.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện C, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng và giải quyết vụ án như sau:

- Về tố tụng:

Tòa án đã thực hiện đầy đủ các thủ tục tố tụng theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến giải quyết vụ án: bà H và ông Võ Thanh Đ quen biết, tìm hiểu, tiến đến hôn nhân, vợ chồng có tổ chức lễ cưới từ năm 2006 và đăng ký kết hôn theo quy định vào ngày 21/6/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện V, tỉnh An Giang là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật thừa nhận và bảo vệ; vợ chồng sống hạnh phúc đến cuối năm 2022 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống nên hay xảy ra cự cãi, vợ chồng đã ly thân từ đó đến nay. Nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, bà H yêu cầu ly hôn với ông Đ.

Xét thấy từ khi bà H gửi đơn khởi kiện, ông Đ không có ý kiến phản hồi, cũng như không tạo điều kiện hàn gắn hạnh phúc vợ chồng. Trong thời gian ly thân, vợ chồng không đến thăm nhau để hàn hắn tình cảm vợ chồng, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng đã ngày càng trầm trọng. Mặc khác, bà H xác định không còn tình cảm với ông Đ nếu tiếp tục chung sống cũng không hạnh phúc, nên việc bà H xin ly hôn với ông Đ là phù hợp Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

Về con chung: Có con chung Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007, sau khi ly hôn bà H yêu cầu tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, việc giao con cho cha hoặc mẹ chăm sóc nuôi dưỡng phải căn cứ vào điều kiện sinh sống, phát triển cũng như nguyện vọng của con. Từ khi bà H và ông Đ ly thân, cháu H1 sống với bà H vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Mặt khác, cháu H1 có nguyện vọng sống chung với bà H. Để ổn định cho cuộc sống của cháu, nên để bà H tiếp tục chăm sóc và nuôi dưỡng cháu. Do bà H không yêu cầu cấp dưỡng nên không đề cập đến.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không đề cập giải quyết.

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình, đề nghị:

- Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị D.H đối với ông Võ Thanh Đ.

- Bà Nguyễn Thị D.H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung tên Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007. Ông Võ Thanh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của đương sự. Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp: Bà H khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Đ, vợ chồng có 01 con chưa thành niên, được xác định là tranh chấp“Ly hôn, nuôi con chung”quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Về thẩm quyền: Bị đơn Võ Thanh Đ có nơi cư trú tại địa bàn huyện C, tỉnh An Giang. Vì vậy, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án huyện C, tỉnh An Giang theo quy định tại các Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

[2.1] Về tính hợp pháp: Bà H, ông Đ quen biết, trên cơ sở tự nguyện tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, không ai lừa dối hay ép buộc; có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật vào ngày 21/6/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện V, tỉnh An Giang thuộc trường hợp hôn nhân hợp pháp được pháp luật thừa nhận, bảo vệ.

[2.2] Về tình trạng hôn nhân: Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hòa thuận, hạnh phúc đến cuối năm 2022 thì bất đồng quan điểm trong cuộc sống hàng ngày thường xuyên cự cãi, không tìm được tiếng nói chung, phát sinh nhiều mâu thuẩn và ly thân cho đến nay, ông Đ đi làm ăn xa; bà H yêu cầu ly hôn với ông Đ; ông Đ không có ý kiến phản hồi thể hiện thiện chí hàn gắn tình cảm; bà H xác định không còn tình cảm với ông Đ và kiên quyết xin được ly hôn;

Với những căn cứ trên, có cơ sở xác định hôn nhân giữa bà H, ông Đ phát sinh mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu của bà H xin ly hôn với ông Đ theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3] Về con chung: Có con chung Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007 hiện đang sống cùng với bà H. Sau khi ly hôn, bà H yêu cầu tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung; không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy, việc giao con cho cha hoặc mẹ chăm sóc nuôi dưỡng phải căn cứ vào điều kiện sinh sống, phát triển cũng như nguyện vọng của con. Từ khi bà H và ông Đ ly thân, cháu H1 sống với bà H vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Bên cạnh đó, ý kiến cháu được sống cùng mẹ.

Vì vậy, để đảm bảo cuộc sống cho cháu nên giao cho bà H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà H không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con, không đề cập.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: không yêu cầu, nên không đề cập;

[5] Về án phí: Bà H phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật Tố tụng Dân sự. Ông Đ không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; các Điều 144, 147, 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của y ban thư ng vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1.Về hôn nhân:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị D.H. Cho bà Nguyễn Thị D.H được ly hôn với ông Võ Thanh Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 200/2013, Quyển số 02/2012, do Ủy ban nhân dân thị trấn P, huyện V, tỉnh An Giang, cấp ngày 21 tháng 6 năm 2013 cho bà Nguyễn Thị D.H với ông Võ Thanh Đ, không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao cháu Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007 cho bà Nguyễn Thị D.H được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến tuổi trưởng thành. Bà Nguyễn Thị D.H không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Bà Nguyễn Thị D.H cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Võ Thanh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung Võ Thanh H1, sinh ngày 12/10/2007.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3.Về tài sản chung, nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí: Bà Nguyễn Thị D.H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, khấu trừ số tiền tạm ứng đã nộp theo biên lai thu tiền số 0013792 ngày 23 tháng 6 năm 2023 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện C, tỉnh An Giang; bà Hiền đã nộp xong.

Ông Võ Thanh Đ không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị D.H, ông Võ Thanh Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án hoặc được niêm yết bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử theo trình tự phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

462
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 232/2023/HNGĐ-ST

Số hiệu:232/2023/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành:31/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về