Bản án về tranh chấp ly hôn số 143/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ GÒ CÔNG, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 143/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 53/2022/TLST-HNGĐ ngày 15 tháng 3 năm 2022 về tranh chấp “ Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 115/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Lê Thị Hồng A, sinh năm 1995 (xin vắng mặt);

Địa chỉ: ấp B, xã T, huyện G1, tỉnh Tiền Giang;

- Bị đơn: Anh Phạm Hồng Tuyết T, sinh năm 1990 (vắng mặt);

Địa chỉ: ấp T, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang;

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn xin ly hôn và trong quá trình tố tụng nguyên đơn chị Lê Thị Hồng A trình bày: Chị và anh T tự tìm hiểu nhau khoảng 03 năm thì tiến đến hôn nhân trên cơ sở tự nguyện và chung sống với nhau từ tháng 11/2017, có đăng ký kết hôn và được UBND xã B, thị xã G cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 166 ngày 18/11/2017. Quá trình chung sống hạnh phúc đến đầu năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh T không lo làm ăn, cuộc sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn. Đến tháng 12/2018 thì chị về nhà mẹ ruột sinh sống nên hai vợ chồng ly thân với nhau từ đó đến nay. Trong thời gian này anh T lại chung sống với người phụ nữ khác bên ngoài. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết:

- Về hôn nhân: Chị yêu cầu được ly hôn với anh Phạm Hồng Tuyết T.

- Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Không có.

* Bị đơn anh Phạm Hồng Tuyết T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng anh T không đến dự phiên tòa cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến về việc chị Hồng A xin ly hôn với anh. Toà án tiếp tục đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Lê Thị Hồng A có đơn đề nghị giải quyết việc ly hôn giữa chị và anh Phạm Hồng Tuyết T có địa chỉ: ấp T, xã B, thị xã G, tỉnh Tiền Giang theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã G, tỉnh Tiền Giang.

[1.1] Chị Lê Thị Hồng A có đơn xin xét xử vắng mặt, anh Phạm Hồng Tuyết T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vắng mặt không lý do. Căn cứ khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Hồng A và anh T.

[2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Hội đồng xét xử xét thấy:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng A và anh Phạm Hồng Tuyết T kết hôn với nhau được Ủy ban nhân dân xã B, thị xã G cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 166 ngày 18/11/2017 là hôn nhân hợp pháp. Nay chị Hồng A yêu cầu ly hôn cần được xem xét giải quyết theo quy định Luật Hôn nhân và Gia đình.

Nhận thấy vợ chồng phải có nghĩa vụ yêu thương, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ thực hiện các công việc trong gia đình. Tuy nhiên, theo chị Hồng A trình bày giữa anh chị phát sinh mâu thuẫn do anh T không lo làm ăn, anh chị đã ly thân với nhau từ tháng 12/2018 đến nay, hiện nay anh T đã có người phụ nữ khác bên ngoài. Tòa án đã nhiều lần triệu tập anh T để hòa giải tạo điều kiện để anh chị hàn gắn tình cảm vợ chồng. Mặc dù, Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh T không đến để trình bày ý kiến về việc chị Hồng A xin ly hôn, chứng tỏ anh T cũng không còn thiết tha hàn gắn tình cảm với chị Hồng A. Mặc khác, thời gian anh chị ly thân với nhau đã lâu nhưng giữa anh chị vẫn không hàn gắn tình cảm được với nhau. Xét thấy, tình cảm vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, một bên đã không còn tình cảm mà kéo dài hôn nhân sẽ không mang lại hạnh phúc cho cả hai anh chị. Mâu thuẫn vợ chồng chị Hồng A và anh T đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài. Do đó Hội đồng xét xử căn cứ Điều 51 và Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Hồng A.

[2.2] Về con chung tài sản chung và nợ chung: Theo chị Hồng A trình bày không có nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét.

[3] Về án phí: Chị Lê Thị Hồng A là nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình - Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Hồng A.

1. Về hôn nhân: Chị Lê Thị Hồng A được ly hôn với anh Phạm Hồng Tuyết T.

2. Về án phí: Chị Lê Thị Hồng A phải nộp 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0006699 ngày 15/3/2022 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã G. Như vậy, chị Lê Thị Hồng A đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Lê Thị Hồng A và anh Phạm Hồng Tuyết T có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

75
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 143/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:143/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Gò Công - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về