TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỚI BÌNH, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 125/2022/HNGĐ-ST NGÀY 05/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN
Ngày 05 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thới Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 151/2022/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 4 năm 2022 về việc tranh chấp ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 124/2022/QĐXXST–HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Anh Trương Minh Gi, sinh năm 1990;
Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (có mặt)
- Bị đơn: Chị Nguyễn Kim D, sinh năm 1992;
Địa chỉ: Khóm 4, thị trấn T, huyện T, tỉnh Cà Mau. (vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Tại đơn khởi kiện ngày 24/9/2021 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Trương Minh Gi trình bày:
Về hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Kim D tự tìm hiểu và được gia đình hai bên tổ chức đám cưới vào năm 2012 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân thị trấn T, huyện T. Trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không có tiếng nói chung, cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc và đã ly thân từ năm 2021cho đến nay. Anh Gi xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với chị D được nữa nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị D.
Về con chung: Anh Gi xác định anh và chị D có 01 con chung tên Trương Minh Nhật A sinh ngày 24/01/2017, hiện đang sống cùng với anh. Khi ly hôn anh Gi yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhật A không yêu cầu chị D cấp dưỡng cho con.
Về tài sản chung: Anh Gi xác định không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Về nợ chung: Anh Gi xác định trong thời gian chung sống vợ chồng không có nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án trực tiếp tống đạt thông báo thụ lý vụ án cho chị Nguyễn Kim D nhưng chị D không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu khởi kiện của anh Gi, không tham gia hòa giải và xét xử.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Kim D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt chị D.
[2] Về hôn nhân: Anh Gi với chị D tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2012, có đăng ký kết hôn. Tại Điều 8 và Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình 2014, thì mối quan hệ hôn nhân giữa anh Trương Minh Gi với chị Nguyễn Kim D được pháp luật công nhận và bảo vệ.
Về nguyên nhân mâu thuẫn: Theo anh Gi xác định trong thời gian chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, chung sống không hạnh phúc. Tại phiên tòa anh Gi xác định không còn tình cảm với chị D và cũng không thể tiếp tục chung sống với chị D được nữa nên vẫn giữ yêu cầu được ly hôn với chị D; đối với chị Nguyễn Kim D, mặc dù đã biết được nội dung khởi kiện xin ly hôn của anh Gi nhưng chị D không có ý kiến gì đối với yêu cầu của anh Gi, điều này cho thấy chị D đã không mong muốn hàn gắn mối quan hệ hôn nhân này nữa. Từ đó cho thấy hôn nhân của anh Gi với chị D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chấp nhận yêu cầu của anh Gi, cho anh Gi được ly hôn với chị D là phù hợp.
[3] Về con chung: Trong thời gian chung sống vợ chồng có 01 con chung tên Trương Minh Nhật Anh sinh ngày 24/01/2017, đang sống cùng với anh Gi. Khi ly hôn anh Gi yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu Nhật A; đối với chị D không có ý kiến về việc nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy từ khi chị D và anh Gi ly thân cho đến nay cháu Nhật A do anh Gi trực tiếp nuôi dưỡng và cháu Nhật A vẫn phát triển bình thường. Do đó, căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 giao cháu Nhật A cho anh Gi được tiếp tục nuôi dưỡng là có căn cứ; đối với việc cấp dưỡng cho con anh Gi không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Anh Gi xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ ai và không ai nợ lại vợ chồng, không yêu cầu Tòa án giải quyết; đối với chị D không có ý kiến gì về tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí: Anh Trương Minh Gi phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; khoản 2 Điều 81 và Điều 82 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giãm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử:
1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Trương Minh Gi. Cho anh Trương Minh Gi được ly hôn với chị Nguyễn Kim D.
2. Về con chung: Giao cháu Trương Minh Nhật A sinh ngày 24/01/2017 cho anh Gi được tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; việc cấp dưỡng cho con không đặt ra. Chị D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về án phí: Anh Trương Minh Gi phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0014897 ngày 18/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình; anh Gi đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
4. Về quyền kháng cáo: Anh Gi có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; chị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Bản án về tranh chấp ly hôn số 125/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 125/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Thới Bình - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 05/08/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về