Bản án về tranh chấp ly hôn số 1172/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN BÌNH TÂN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1172/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 20 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 489/2022/TLST-HNGĐ ngày 06 tháng 4 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 207/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 17 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 142/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: bà Đ T Th, sinh năm: 1977 Địa chỉ thường trú: ấp Ch C, thị trấn M X, huyện M X, tỉnh S Tr.

Địa chỉ tạm trú: số 18 đường số 2, khu phố 5, phường B H H B, quận B T, Thành phố H.

Bà Th có đơn xin vắng mặt.

2. Bị đơn: ông L M Q, sinh năm: 1965 Địa chỉ thường trú: ấp Ch C, thị trấn M X, huyện M X, tỉnh S Tr.

Địa chỉ tạm trú: số 27/1 đường T L, phường B Tr Đ A, quận B T, Thành phố H.

Ông Q có đơn xin vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn của bà Đ T Th và bản tự khai của các đương sự tại Tòa án cùng các tài liệu, chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ thì nội dung vụ án được xác định như sau:

Nguyên đơn bà Đ T Th trình bày: vợ chồng bà quen biết nhau năm 1998, năm 1998 tổ chức đám cưới và đăng ký kết hôn theo giấy chứng nhận kết hôn số 19, cấp ngày 20/02/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M X, huyện M X, tỉnh S Tr. Hai bên chung sống với nhau hạnh phúc thời gian đầu nhưng đến năm 2012 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi vã nhau. Ông Q không có trách nhiệm với vợ con, chỉ biết tiêu xài cho cá nhân ông. Ông Q thường xuyên say xỉn về chửi bới, thậm chí đánh đập bà nhiều lần. Bà và ông Q đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay. Nay do tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông L M Q để hai bên rõ ràng về mặt pháp lý và ổn định cuộc sống của mỗi người.

Về con chung: có 01 con chung tên là L M V, sinh ngày 19/6/2000 (đã trưởng thành).

Về tài sản chung: bà xác nhận tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: bà xác nhận không có.

Bị đơn ông L M Q trình bày: ông xác nhận thời gian chung sống, đăng ký kết hôn đúng như lời trình bày của bà Đ T Th. Tuy nhiên theo ông về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do bà Th bỏ nhà ra ngoài sinh sống từ năm 2017 cho đến nay. Do ông và bà Th sống ly thân với nhau quá lâu, mục đích hôn nhân không đạt được nên ông cũng đồng ý ly hôn với bà Đ T Th.

Về con chung: có 01 con chung tên là L M V, sinh ngày 19/6/2000 (đã trưởng thành).

Về tài sản chung: ông xác nhận tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: ông xác nhận không có.

Vụ án không tiến hành hòa giải được do vắng mặt bị đơn. Do đó, Tòa án đưa vụ án ra xét xử công khai ngày hôm nay.

Tại phiên tòa, nguyên đơn vẫn giữ nguyên ý kiến và có đơn xin vắng mặt. Riêng bị đơn đồng ý với các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và có đơn xin vắng mặt.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân phát biểu ý kiến và kết luận: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Toà án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về thẩm quyền, thủ tục tố tụng. Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện đầy đủ và đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn, bị đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định tại Điều 70, Điều 71, Điều 72, Điều 73 và Điều 234 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn. Về con chung: có 01 con chung tên L M V, sinh ngày 19/6/2000 đã trưởng thành nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung: bà Th, ông Q không yêu cầu tòa án giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Xét qua đơn xin ly hôn của bà Đ T Th, cùng các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ, có cơ sở xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình về việc “tranh chấp ly hôn”. Bị đơn ông L M Q có nơi cư trú tại số 27/1 đường T L, phường B Tr Đ A, quận BT, Thành phố H. Do đó, vụ kiện thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân quận Bình Tân theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[3] Về thủ tục tố tụng: tại phiên tòa, bà Đ T Th và ông L M Q cùng có đơn xin vắng mặt, căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Th, ông M là phù hợp.

[4] Về nội dung: Căn cứ theo giấy chứng nhận kết hôn số 19, cấp ngày 20/02/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M X, huyện M X, tỉnh S Tr cùng lời khai của nguyên đơn, bị đơn về việc tự nguyện kết hôn nên có căn cứ xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Th, ông Minh là quan hệ hôn nhân hợp pháp.

[5] Xét qua yêu cầu xin ly hôn bà Đ T Th đối với ông L M Q. Qua lời trình bày của nguyên đơn thì trong quá trình chung sống, vợ chồng bà Th, ông Q đã phát sinh mâu thuẫn trong một thời gian dài. Nguyên nhân mâu thuẫn theo lời trình bày của bà Th là do bất đồng quan điểm sống về mọi mặt, tính tình không hợp nên thường xuyên cãi vã nhau. Ông Q là người không có trách nhiệm với vợ con, chỉ biết tiêu xài cho cá nhân ông Q. Ông Q thường xuyên say xỉn về chửi bới thậm chí đánh đập bà nhiều lần. Bà và ông Q đã sống ly thân với nhau từ năm 2017 cho đến nay. Bị đơn cũng thừa nhận nguyên nhân mâu thuẫn là do bà Th bỏ nhà ra ngoài sinh sống từ năm 2017 cho đến nay. Do ông Q và bà Th sống ly thân với nhau quá lâu, mục đích hôn nhân không đạt được. Như vậy, hai bên không đảm bảo được “tình nghĩa vợ chồng” theo quy định tại Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình “vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc nhau, vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác hoặc do yêu cầu của nghề nghiệp, công tác, học tập, tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và lý do chính đáng khác”. Tòa án đã nhiều lần triệu tập hòa giải để hai bên hàn gắn, đoàn tụ nhưng bà Th vẫn cương quyết yêu cầu ly hôn với ông Q và ông Q cũng có văn bản đồng ý ly hôn với bà Th. Từ đó nhận thấy tình cảm vợ chồng của bà Th, ông Q không còn, mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, nên việc tiếp tục chung sống là không còn ý nghĩa. Do đó, yêu cầu ly hôn của bà Th là có cơ sở chấp nhận phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.

[6] Về con chung: có 01 con chung tên L M V, sinh ngày 19/6/2000. Hiện con chung đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xét.

[7] Về tài sản chung: bà Th, ông Q cùng xác nhận tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[8] Về nợ chung: bà Th, ông Q cùng xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xét.

[9] Đối với ý kiến phát biểu tại phiên tòa của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh thấy rằng, các ý kiến và đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về hình thức và nội dung là phù hợp quy định của pháp luật, nên chấp nhận.

[10] Về án phí: bà Đ T Th chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

- Căn cứ Điều 19 và Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án;

- Căn cứ Luật Thi hành án dân sự;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Đ T Th đối với ông L M Q.

Về quan hệ hôn nhân: bà Đ T Th được ly hôn với ông L M Q.

Giấy chứng nhận kết hôn số 19, cấp ngày 20/02/2013 tại Ủy ban nhân dân thị trấn M X, huyện M X, tỉnh S Tr, cấp cho bà Đ T Th và ông L M Q không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: có 01 con chung tên L M V, sinh ngày 19/6/2000. Hiện con chung đã trưởng thành nên Hội đồng xét xử không xét.

3. Về tài sản chung: bà Th, ông Q cùng xác nhận tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

4. Về nợ chung: bà Th, ông Q cùng xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xét.

5. Về án phí: bà Đ T Th chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn được cấn trừ vào số tiền 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) tiền tạm ứng án phí bà Đ T Th đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0033775 ngày 06/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Đ T Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

6. Các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

154
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 1172/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:1172/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Tân - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về