Bản án về tranh chấp ly hôn số 111/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU

BẢN ÁN 111/2022/HNGĐ-ST NGÀY 23/08/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 23 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 700/2022/TLST - DS ngày 05 tháng 7 năm 2022 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 92/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022, Quyết định hoãn phiên tòa số: 63/2022/QĐ-ST ngày 05 tháng 8 năm 2022, giữa:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Ngọc N, sinh năm 1990; Địa chỉ: 60/58A BĐ, P 5, thành phố VT, tỉnh BR - VT.

Bị đơn: Ông Phạm Văn H, sinh năm 1992; Địa chỉ: 60/58A BĐ, P 5, thành phố VT, tỉnh BR - VT.

(Bà N vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; ông H vắng mặt không có đơn).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc N trình bày:

Bà và ông Phạm Văn H quen biết nhau vào năm 2011, đến năm 2012 thì đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 19-3-2012. Sau khi kết hôn được 04 tháng thì bà và ông H đã phát sinh mâu thuẫn do ông H thường dùng bạo lực và lời lẽ xúc phạm với bà. Ngoài ra, ông H còn là người ham chơi, thường xuyên ăn nhậu về khuya, hoặc đi qua đêm, chơi cờ bạc không quan tâm đến vợ con dẫn đến vợ chồng bất hòa, thường xuyên cãi vã. Về vấn đề làm ăn kinh tế thì không bàn bạc cùng bà và gây nhiều nợ nần. Bà cũng nhiều lần khuyên bảo, đề nghị chồng sửa đổi để vợ chồng cùng nhau xây dựng kinh tế, nuôi dạy con cái nhưng ông H không thay đổi. Ông thường xuyên vắng nhà không thông báo cho bà biết, thể hiện không tôn trọng bà nên vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Nay, bà xác định không còn tình cảm với ông H, yêu cầu Tòa án giải quyết cụ thể như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Phạm Văn H.

Về con chung, cấp dưỡng: Bà và ông H có 03 con chung là Phạm Nguyễn Thanh T, sinh ngày 28-4-2013; Phạm Nguyễn Đức M, sinh ngày 04-4-2017; Phạm Nguyễn Minh K, sinh năm 01-11-2020; bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 03 con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa, Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc N vắng mặt, có đơn giữ nguyên các ý kiến trình bày ở giai đoạn trước khi xét xử và xin vắng mặt tại phiên tòa.

Bị đơn ông Phạm Văn H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để làm việc, tham gia phiên họp về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và tham gia phiên hòa giải, tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vũng Tàu phát biểu tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử và nguyên đơn tuân thủ đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự, bị đơn không thực hiện đúng quy định pháp luật về tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu đã tiến hành các thủ tục tống đạt đối với nguyên đơn, bị đơn theo đúng quy định nhưng nguyên đơn vắng mặt và có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do tại phiên tòa lần 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn là đúng quy định pháp luật.

Về nội dung: Căn cứ các quy định pháp luật về Luật Hôn nhân và gia đình, kết quả xác minh của Tòa án, chứng cứ trong hồ sơ, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án: bà Nguyễn Thị Ngọc N khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Phạm Văn H nên đây là vụ án "tranh chấp ly hôn" thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự; bị đơn ông Phạm Văn H có nơi cư trú tại thành phố Vũng Tàu nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 35 và điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Ngọc N, bị đơn ông Phạm Văn H đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng và giấy triệu tập để tham gia phiên tòa lần thứ 2 nhưng nguyên đơn vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt; bị đơn vắng mặt không có lý do. Do đó, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

[2.1] Bà N và ông H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 5, thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu và được cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 31 ngày 19-3-2012 nên là hôn nhân hợp pháp.

Theo bà N trình bày: Sau khi kết hôn được 04 tháng thì bà và ông H đã phát sinh mâu thuẫn do ông H thường dùng bạo lực và lời lẽ xúc phạm, ham chơi, thường xuyên ăn nhậu về khuya, hoặc đi qua đêm, chơi cờ bạc không quan tâm đến vợ con; về làm ăn kinh tế thì không bàn bạc, gây nhiều nợ nần và thường xuyên vắng nhà, không thông báo thời gian đi, về cho vợ con biết, thể hiện sự không tôn trọng, vợ chồng không quan tâm chăm sóc lẫn nhau, không có tiếng nói chung. Vì vậy, bà N xác định không còn tình cảm với ông H.

Kết quả xác minh của Tòa án với địa phương nơi bà N, ông H sinh sống có nội dung: Trong thời gian cư trú tại địa phương thì bà N, ông H có xảy ra mâu thuẫn, theo bà N trình bày là do ông H không chịu làm ăn kinh tế và không quan tâm đến vợ, con nhưng bà N và ông H không yêu cầu địa phương hòa giải. Những nội dung xác minh trên phù hợp với lời trình bày của bà N. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã gửi các văn bản tố tụng và triệu tập ông H đến làm việc nhưng ông H không tham dự cũng như không có ý kiến phản hồi, cho thấy ông H không quan tâm đến tâm tư nguyện vọng của bà N và không có thiện chí khắc phục mâu thuẫn để đoàn tụ gia đình.

Xét thấy, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ hai phía, cả hai cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế, bà N xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông H và giữ nguyên ý kiến trình bày, yêu cầu khởi kiện của mình, cho thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà N với ông H đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Xét yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân của bà N với ông H là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[2.2] Về con chung, cấp dưỡng: Bà N với ông H có 03 con chung là Phạm Nguyễn Thanh T, sinh ngày 28-4-2013; Phạm Nguyễn Đức M, sinh ngày 04-4-2017; Phạm Nguyễn Minh K, sinh năm 01-11-2020; bà N yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả 03 con chung và không yêu cầu ông H cấp dưỡng. Xét yêu cầu được trực tiếp nuôi con của bà N thì thấy: các cháu Phạm Nguyễn Thanh T, Phạm Nguyễn Đức M, Phạm Nguyễn Minh K còn nhỏ, đang được bà N chăm sóc, nuôi dưỡng, cháu Trúc có nguyện vọng được ở với mẹ, ông H cũng không có ý kiến yêu cầu gì về việc nuôi con chung; xét việc bà N không yêu cầu ông H cấp dưỡng thì thấy đây là ý kiến tự nguyện và sự tự nguyện này không vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội nên căn cứ Khoản 2 Điều 81 luật Hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N về việc bà N được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng các cháu Phạm Nguyễn Thanh T, Phạm Nguyễn Đức M, Phạm Nguyễn Minh K, ông H không cấp dưỡng nuôi con chung.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, bà N phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm. Ông H không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

Căn cứ vào:

QUYẾT ĐỊNH

- Khoản 1 Điều 28; điểm a Khoản 1 Điều 35; điểm a Khoản 1 Điều 39; Khoản 4 Điều 147; điểm b Khoản 2 Điều 227 và Khoản 3 Điều 228, Điều 266; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc N.

Về quan hệ hôn nhân: bà Nguyễn Thị Ngọc N được ly hôn với ông Phạm Văn H.

Về con chung, cấp dưỡng: bà Nguyễn Thị Ngọc N được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là Phạm Nguyễn Thanh T, sinh ngày 28-4-2013; Phạm Nguyễn Đức M, sinh ngày 04-4-2017; Phạm Nguyễn Minh K, sinh năm 01- 11-2020; ông Phạm Văn H không cấp dưỡng nuôi con chung.

Người không trực tiếp nuôi dưỡng con chung có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ của con hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

Về tài sản chung, nợ chung: bà Nguyễn Thị Ngọc N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2.Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm:

Bà Nguyễn Thị Ngọc N phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002779 ngày 04 tháng 7 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Vũng Tàu; bà N đã nộp xong án phí.

Ông Phạm Văn H không phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu xét xử theo trình tự phúc thẩm. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

51
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn số 111/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:111/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về