Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HỒNG NGỰ, TỈNH ĐỒNG THÁP

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/04/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 13 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 215/2021/TLST- HNGĐ ngày 16 tháng 12 năm 2021, về tranh chấp ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐXX-ST ngày 08 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Huỳnh Thị Minh H, sinh năm 1971; Nơi cư trú: Ấp LH, xã LK, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Anh Phan Văn S, sinh năm 1975; Nơi cư trú: Ấp LH, xã LK, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp.

(Nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 17 tháng 11 năm 2021, đơn khởi kiện sửa đổi ngày 15 tháng 12 năm 2021, biên bản lấy lời khai ngày 18 tháng 01 năm 2022, chị Huỳnh Thị Minh H trình bày: Vào năm 2012, chị và anh Phan Văn S cưới nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã LK, huyện HN, tỉnh Đồng Tháp. Thời gian đầu cuộc sống vợ chồng hạnh phúc, nhưng đến năm 2018 thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do anh S thường xuyên nhậu, say xỉn, dùng lời lẽ thô tục mắng chửi chị và không lo cho gia đình, nên chị và anh S không còn sống chung hơn 01 năm nay. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn tình cảm được nữa, nên chị yêu cầu ly hôn với anh S. Về con chung: Có 01 con chung Phan Ngọc H1, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2014, nay ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu anh S cấp dưỡng nuôi con. Về chia tài sản chung: Chị và anh S tự thỏa thuận, nên không yêu cầu giải quyết.

Đối với anh Phan Văn S, Toà án đã triệu tập để hòa giải và xét xử theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự nhưng anh từ chối không đến Tòa án tham gia phiên hòa giải và xét xử.

Tại bản khai ngày 18 tháng 01 năm 2022, cháu Phan Ngọc H1 trình bày:

Ba mẹ ly hôn nguyện vọng con muốn ở với mẹ.

Tại phiên tòa hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hồng Ngự phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Về hôn nhân: chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Huỳnh Thị Minh H được ly hôn với anh Phan Văn S; về con chung: Giao cháu Phan Ngọc H1, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2014 cho chị Huỳnh Thị Minh H tiếp tục nuôi dưỡng, anh Phan Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H chưa có yêu cầu; về chia tài sản chung: Tự thỏa thuận, nên Viện kiểm sát không đề cập đến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Đây là vụ kiện tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự và Điều 53 Luật Hôn nhân và Gia đình.

[2] Nguyên đơn chị Huỳnh Thị Minh H có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, bị đơn anh Phan Văn S đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt, căn cứ khoản 2 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án vắng mặt nguyên đơn, bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Huỳnh Thị Minh H và anh Phan Văn S là hôn nhân hợp pháp, có đăng ký kết hôn và hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình. Xét yêu cầu ly hôn của chị Huỳnh Thị Minh H và anh Phan Văn S, Hội đồng xét xử xét thấy: Theo trình bày của chị H thì cuộc sống của chị và anh S không còn hạnh phúc từ năm 2018, tình cảm giữa hai vợ chồng không còn hợp nhau, anh S thường xuyên nhậu, chửi mắng chị và không lo cho gia đình, nên vợ chồng đã không còn sống chung từ hơn 01 năm nay. Từ đó, có thể nhận thấy rằng mối quan hệ vợ chồng của chị H đối với anh S hoàn toàn không còn, hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Như vậy, xét thấy yêu cầu ly hôn của chị H là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được” và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát, nên chấp nhận cho chị H ly hôn với anh S.

[4] Về việc nuôi con: Chị Huỳnh Thị Minh H yêu cầu được nuôi dưỡng con chung Phan Ngọc H1, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2014 và không yêu cầu anh Phan Văn S cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử xét thấy, cháu H1 từ khi chị H và anh S không còn sống chung và hiện nay đều do chị H chăm sóc, nuôi dưỡng, cháu H1 cũng có nguyện vọng muốn sống với mẹ và để ổn định việc sinh hoạt của cháu, nên Hội đồng xét xử chấp nhận cho chị H được tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, anh S không phải cấp dưỡng nuôi con do chị H chưa có yêu cầu và cũng phù hợp với đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát.

[5] Về chia tài sản chung: Chị Huỳnh Thị Minh H cho rằng đã tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, còn anh Phan Văn S không gửi văn bản ghi ý kiến của mình để Tòa án xem xét, nên Hội đồng xét xử không đề cập đến.

[6] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng Dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án để buộc đương sự phải chịu tiền án phí sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự; Điều 53, khoản 1 Điều 56, các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQHI4 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Thị Minh H, cho ly hôn giữa chị Huỳnh Thị Minh H và anh Phan Văn S.

2. Về việc nuôi con chung:

2.1. Chị Huỳnh Thị Minh H được tiếp tục chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con chung Phan Ngọc H1, sinh ngày 23 tháng 02 năm 2014.

2.2. Anh Phan Văn S không phải cấp dưỡng nuôi con.

2.3. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí sơ thẩm: Chị Huỳnh Thị Minh H chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0003768 ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hồng Ngự.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

5. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hồng Ngự - Đồng Tháp
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về