TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SƠN DƯƠNG, TỈNH TUYÊN QUANG
BẢN ÁN 45/2022/HNGĐ-ST NGÀY 10/06/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 10/6/2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Sơn Dương mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 86/2022/TLST- HNGĐ, ngày 14 tháng 3 năm 2022 về việc Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2022/QĐST- HNGĐ, ngày 11/5/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 24/2022/QĐST-HNGĐ ngày 26/5/2022 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị X, sinh năm 1990.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Tuấn A, sinh năm 1990.
Cùng địa chỉ: Thôn P, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
(Chị X có đơn xin xét xử vắng mặt, anh T vắng mặt không có lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn chị Nguyễn Thị X trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Tuấn A kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 22/7/2012 tại Uỷ ban nhân dân (UBND) xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang theo đúng quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn hai vợ chồng cùng làm ăn sinh sống tại thôn P, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2017 vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã khiến cho cuộc sống chung luôn trong tình trạng căng thẳng. Vợ chồng chị cũng sống ly thân từ năm 2018 đến nay không còn liên lạc gì với nhau. Nay chị xác định tình cảm không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn A.
Về con chung: Chị và anh Tuấn A có một con chung là cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017. Hiện nay cháu đang ở cùng chị. Khi ly hôn chị đề nghị được quyền nuôi dưỡng, giáo dục cháu U và không yêu cầu anh Tuấn A cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản, đất đai, công nợ chung: Chị xác định không có, không đề nghị Toà án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thực hiện đầy đủ thủ tục tố tụng theo quy định của pháp luật và tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh Nguyễn Tuấn A trốn tránh, không hợp tác làm việc, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có văn bản trình bày ý kiến. Do đó Tòa án không lấy được lời khai và không hòa giải được.
Tại biên bản lấy lời khai ngày 30/4/2022, bà Nguyễn Thị Đ (Bà Đ là mẹ của anh Nguyễn Tuấn A) là người làm chứng trình bày:
Về thời gian kết hôn và quá trình chung sống của chị X và anh Tuấn A như chị X trình bày là đúng. Khoảng năm 2017 giữa vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn cãi chửi nhau. Nguyên nhân dẫn đến ly hôn bà không nắm rõ. Hiện nay anh Tuấn A đang đi làm ăn xa nhà, không có mặt tại địa phương.
Về con chung vợ chồng anh chị có một con chung là cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017. Hiện nay cháu đang ở cùng với gia đình bà. Việc giao nuôi con chung bà đề nghị Tòa án xem xét giao cháu U cho anh Tuấn A nuôi dưỡng, giáo dục.
Tại phiên toà đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện Sơn Dương phát biểu quan điểm: Toà án đã thụ lý, giải quyết vụ án ly hôn sơ thẩm về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn” là đúng thẩm quyền, đúng nội dung tranh chấp. Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án và tại phiên tòa, thẩm phán và Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền và nghĩa vụ của đương sự được đảm bảo. Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ chấp nhận. Đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án: chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị X, xử cho chị Nguyễn Thị X được ly hôn với anh Nguyễn T. Về con chung giao cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017 cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục.
Anh Nguyễn Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở. Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự không có tranh chấp nên không xem xét. Về án phí ly hôn sơ thẩm chị Nguyễn Thị X tự nguyện chịu toàn bộ phần án phí, anh Nguyễn Tuấn A không phải chịu án phí. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, HĐXX nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Tuấn A kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn, vì vậy đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Chị X khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn và giao nuôi con chung khi ly hôn, do vậy quan hệ pháp luật tranh chấp xác định là: Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Chị Nguyễn Thị X và anh Nguyễn Tuấn A đều đăng ký hộ khẩu thường trú và sinh sống tại thôn P, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Vì vậy, căn cứ khoản 1, Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án là Tòa án nhân dân huyện Sơn Dương.
[3] Anh Nguyễn Tuấn A đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt. Do đó, HĐXX căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.
[4] Về yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị X, HĐXX nhận định: Căn cứ kết quả xác minh tại chính quyền địa phương nơi cư trú của chị X và anh Tuấn A xác định: chị X và anh Tuấn A kết hôn vào năm 2012. Sau khi kết hôn, anh chị làm ăn sinh sống tại thôn P, xã C, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Thời gian chung sống vợ chồng anh chị có phát sinh mâu thuẫn dẫn đến cãi chửi nhau. Vợ chồng chị X và anh Tuấn A cũng sống ly thân từ năm 2018 đến nay. Hiện nay anh Tuấn A đang đi làm ăn xa nhà, thỉnh thoảng anh mới về địa phương. Qúa trình giải quyết vụ án chị X xác định vợ chồng không còn tình cảm, không thể quay lại đoàn tụ được, anh Tuấn A không có ý kiến gì, không có mặt theo yêu cầu của Tòa án để tiến hành hòa giải, điều đó cho thấy anh Tuấn A cũng không mong muốn hòa giải đoàn tụ.
Từ những căn cứ trên xác định, tình trạng hôn nhân giữa chị X và anh Tuấn A đã thực sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của chị X là chính đáng và có căn cứ cần chấp nhận theo quy định tại khoản 1, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.
[5] Về con chung: Qúa trình giải quyết ly hôn chị Nguyễn Thị X có quan điểm muốn được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017, chị không yêu cầu anh Tuấn A cấp dưỡng nuôi con chung. Qúa trình xác minh tại địa phương thể hiện: Chị X và anh Tuấn A có một con chung là cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017, hiện nay cháu U đang ở cùng với chị X. Theo chính quyền địa phương nên giao cháu cho chị X trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh thực tế. Do đó, căn cứ vào các Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017 cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con, anh Tuấn A có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
[6] Về tài sản, đất đai, vay nợ chung: Chị X xác định không có, không đề nghị Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét.
[7] Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải nộp toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Anh Nguyễn Tuấn A không phải nộp án phí.
[8] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào các Điều 28, 39, 147, 228, 235, 238, 266, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự. Áp dụng khoản 1 Điều 56, các Điều 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH144 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị X về việc Kiện Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn đối với anh Nguyễn Tuấn A.
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị X được ly hôn với anh Nguyễn Tuấn A.
2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thảo U, sinh ngày 08/4/2017 cho chị Nguyễn Thị X trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con và được quyền đi lại thăm nom con chung không ai được cản trở.
3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị X phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001974 ngày 14 tháng 3 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Anh Nguyễn Tuấn A không phải nộp án phí.
4. Về quyền kháng cáo: Các đương vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn số 45/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 45/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Sơn Dương - Tuyên Quang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 10/06/2022 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về