Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 42/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU PHÚ, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 42/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/02/2022 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 22 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 212/2021/TLST.HNGĐ ngày 04 tháng 5 năm 2021, việc tranh chấp ly hôn, nuôi con chung theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 297/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 23/2021/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 01 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang, giữa:

1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Tuyết P, sinh năm 1989.

Địa chỉ:

+ ấp MB, xã TMT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

+ VTT, khu phố cư xá thị trấn KL, huyện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang.

Bà Nguyễn Thị Tuyết P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Ông Phan Hữu T, sinh năm 1983. Vắng mặt.

Địa chỉ: tổ 01, ấp MB, xã TMT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*.Tại đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết P trình bày và có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T do tự tìm hiểu, tự nguyện tiến đến hôn nhân vào năm 2006, có tổ chức lễ cưới, hôn nhân lần thứ nhất của cả hai, có đăng ký kết hôn trễ hạn theo giấy chứng nhận kết hôn số: 209 ngày 28/9/2013 tại Ủy ban nhân dân xã TMT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 9 năm 2020 thì phát sinh mâu thuẩn, bất đồng quan điểm sống, ông Phan Hữu T thường xuyên nhậu nhẹt, thường hay cãi vả, cả hai nhiều lần tìm cách hàn gắn nhưng vẫn không thực hiện được và đã ly thân từ đó cho đến nay. Nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống hôn nhân không thể kéo dài nên bà Nguyễn Thị Tuyết P yêu cầu được ly hôn với ông Phan Hữu T.

Về con chung: Có 02 (hai) con chung chưa thành niên tên Phan Hữu L, sinh ngày 26/8/2007 và Phan Hữu Đ, sinh ngày 12/3/2009. Hiện nay, cháu L và cháu Đ đang sống cùng bà Nguyễn Thị Tuyết P và ý kiến của cháu L và cháu Đ có nguyện vọng sống chung với bà Nguyễn Thị Tuyết P. Khi ly hôn bà Nguyễn Thị Tuyết P yêu cầu được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng con chung chưa thành niên tên Phan Hữu Đ và Phan Hữu L, không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*.Bị đơn ông Phan Hữu T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án và Thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, nhưng ông Phan Hữu T không có văn bản thể hiện ý kiến gửi cho Tòa án và không có mặt tại phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Phú, tỉnh An Giang phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán cho đến việc diễn biến tại phiên tòa của Hội đồng xét xử và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn ông Phan Hữu T đã được Tòa án tống đạt họp lệ các văn bản tố tụng, triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Phan Hữu T vẫn vắng mặt là vi phạm quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh trụng. Tòa án nhân dân huyện Châu Phú nhận định:

[2] Về tố tụng: Phiên tòa được mở lần thứ hai nhưng nguyên đơn bà Nguyễn Thị Tuyết P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt ghi ngày 26/01/2022, với nội dung đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Tuyết P. Ông Phan Hữu T đã được Tòa án triệu tập dự phiên tòa đúng theo quy định Điều 179 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nhưng ông Phan Hữu T vẫn vắng mặt. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T.

[3] Về hôn nhân: Giữa bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T là hôn nhân hợp pháp bởi ông bà có đăng ký kết hôn theo quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014, làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

Xem xét yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết P, Hội đồng xét xử nhận thấy trong cuộc sống vợ chồng của ông bà đã không còn hạnh phúc, do một bên không còn tình cảm, đã có khoảng thời gian ly thân, cả hai có những mâu thuẫn mà không thể hàn gắn được do giữa ông bà không có sự cảm thông cho nhau . Trong quá trình Tòa án xem xét giải quyết vụ án, ông Phan Hữu T không cung cấp ý kiến và không đến Tòa án tham dự phiên hòa giải, phiên tòa thể hiện chưa có sự quan tâm đối với yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết P. Điều đó chứng tỏ tình trạng hôn nhân của ông bà đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, nếu duy trì cuộc hôn nhân này cũng không đem lại hạnh phúc cho cả hai. Do đó, yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị Tuyết P là có cơ sở nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, bà Nguyễn Thị Tuyết P được ly hôn với ông Phan Hữu T.

[4] Về nuôi con chung: Theo giấy khai sinh của Phan Hữu L và Phan Hữu Đ, lời trình bày của bà Nguyễn Thị Tuyết P thì bà và ông Phan Hữu T có con chung chưa thành niên tên Phan Hữu L, sinh ngày 26/8/2007 và Phan Hữu Đ, sinh ngày 12/3/2009, do bà Nguyễn Thị Tuyết P đang nuôi dưỡng, chăm sóc.

Xét thấy, con chung được bà Nguyễn Thị Tuyết P giáo dục, chăm sóc, nuôi dưỡng để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển về mọi mặt của cháu, tạo điều kiện cho cháu được ổn định về tâm sinh lý, chỗ ở, sinh hoạt và học tập nên bà Nguyễn Thị Tuyết P yêu cầu được nuôi con là có cơ sở nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Căn cứ khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, giao con chung chưa thành niên tên Phan Hữu L, sinh ngày 26/8/2007 và Phan Hữu Đ, sinh ngày 12/3/2009 cho bà Nguyễn Thị Tuyết P được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng. Ông Phan Hữu T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Tuyết P và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Tuyết P không được cản trở ông Phan Hữu T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Bà Nguyễn Thị Tuyết P không yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết P trình bày giữa bà và ông Phan Hữu T về tài sản chung và nợ chung là không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay do không có mặt của ông Phan Hữu T để đối chất làm rõ các mối quan hệ này nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu đương sự có tranh chấp sẽ giải quyết thành vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết P là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, Điều 143, khoản 4 Điều 147, Điều 179, Điều 186, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Điều 9, khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81, khoản 3 Điều 82, Điều 83 và khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T.

Giấy chứng nhận kết hôn số: 209 ngày 28/9/2013 tại Ủy ban nhân dân xã TMT, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.

2.Về nuôi con chung: Có 02 (hai) con chung chưa thành niên tên Phan Hữu L, sinh ngày 26/8/2007 và Phan Hữu Đ, sinh ngày 12/3/2009.

2.1.Giao con chung chưa thành niên tên Phan Hữu L, sinh ngày 26/8/2007 và Phan Hữu Đ, sinh ngày 12/3/2009 cho bà Nguyễn Thị Tuyết P được tiếp tục chăm sóc nuôi dưỡng.

Ông Phan Hữu T có quyền và nghĩa vụ thăm nom con. Bà Nguyễn Thị Tuyết P và các thành viên trong gia đình của bà Nguyễn Thị Tuyết P không được cản trở ông Phan Hữu T thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

2.2. Bà Nguyễn Thị Tuyết P không yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

3.Về tài sản chung và nợ chung: Bà Nguyễn Thị Tuyết P trình bày tài sản chung và nợ chung là không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết.

4.Về án phí: Bà Nguyễn Thị Tuyết P phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0008899 ngày 25 tháng 4 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Phú, tỉnh An Giang. Bà Nguyễn Thị Tuyết P đã nộp đủ.

5.Về quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Tuyết P và ông Phan Hữu T vắng mặt, thời hạn kháng cáo 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

109
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 42/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về