TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH B
BẢN ÁN 54/2021/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2021 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Ngày 06 tháng 8 năm 2021, Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm vụ án dân sự sơ thẩm thụ lý số 159/2021/TLST- HNGĐ ngày 06/5/2021về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 52/2021/QĐST-DS ngày 14/7/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 35/2021/QĐST-HNGĐ ngày 29/7/2021 giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Thùy Tr - sinh năm: 1985 (Có đơn xin vắng mặt) ĐKHKTT và nơi ở: Số nhà 05, ngõ 75, đường Thánh Thiên, phường LL, thành phố B
2. Bị đơn: Anh Đặng Thanh H - sinh năm: 1985 (vắng mặt) ĐKHKTT và nơi ở: Số nhà 05, ngõ 75, đường Thánh Thiên, phường LL, thành phố B
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ghi ngày 15/4/2021 và các lời khai tiếp theo, nguyên đơn chị Phạm Thị Thùy Tr trình bày:
Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Đặng Thanh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Phú, thành phố B ngày 25/3/2008 và tổ chức lễ cưới tại gia đình hai bên theo phong tục, tập quán. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống cùng nhau và sống chung với bố, mẹ chồng tại số nhà 05, ngõ 75, đường Thánh Thiên, phường LL, thành phố B. Trong những năm chung sống vợ chồng không thực sự hòa hợp, hạnh phúc do tính cách, lối sống khác nhau, đến năm 2019 thì xảy ra mâu thuẫn gay gắt, thường xuyên cãi vã, tranh chấp, nguyên nhân do anh H ham chơi, không chịu làm ăn, chăm lo cho gia đình, khiến cho vợ chồng mất dần tình cảm. Đầu năm 2020 chị đã gửi đơn xin ly hôn, nhưng do gia đình hòa giải, bố mẹ chồng khuyên bảo nên chị rút đơn. Nhưng từ khi chị rút đơn đến nay giữa chị và anh H vẫn không thể hòa giải mâu thuẫn, anh H ngày càng sa vào ăn chơi, cờ bạc, nợ nần, gia đình không ai khuyên can được. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, kéo dài chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị và anhh H ly hôn.
Về con chung: Vợ chồng chị có ba con chung là Đặng Thị Minh Hằng, sinh ngày 15/12/2008, Đặng Thị Bích Ngân, sinh ngày 06/10/2013 và Đặng Quốc Khánh, sinh ngày 08/9/2019. Hiện nay các con đều khỏe mạnh, chị đề nghị Tòa án giao cả ba con cho chị nuôi và không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung. Chị không đồng ý cho anh H nuôi con vì anh H không có nghề nghiệp, thu nhập không có, không quan tâm đến con.
Về tài sản chung, công nợ chung: Không có.
Bị đơn anh Đặng Thanh H đã được Tòa án thông báo việc thụ lý vụ án, gửi giấy triệu tập và các văn bản tố tụng, nhưng anh H không đến Tòa án làm việc, không có bản tự khai nêu ý kiến, quan điểm của anh đối với yêu cầu khởi kiện của chị Tr.
Ông Đặng Văn Ngũ trình bày: Ông là bố đẻ của anh Đặng Thanh H, hiện anh H và vợ, con sinh sống cùng vợ chồng ông tại nhà số 5, ngõ 75, đường Thánh Thiên, phường LL, thành phố B. Thời gian này, anh H thường xuyên đi vắng, thỉnh thoảng mới về nhà, ông không biết anh H đang làm gì, ở đâu. Tòa án giao, gửi thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và các văn bản tố tụng, ông và gia đình đã nhận và đã thông báo cho anh H biết, còn anh H có đến Tòa án làm việc hay không thì ông không rõ, anh H không nói gì với ông.
Về quan hệ hôn nhân, anh H và chị Tr đã đăng ký kết hôn hợp pháp và được gia đình tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn, vợ chồng anh H sống cùng vợ chồng ông, trong cuộc sống, gia đình hòa thuận, không có việc mâu thuẫn giữa bố, mẹ chồng và con dâu. Tuy nhiên, giữa vợ chồng H và Tr những năm gần đây đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H ham chơi, đua đòi, cờ bạc, nợ nần, tiêu tán tài sản của gia đình. Vợ chồng ông và chị Tr đã khuyên bảo nhưng anh H không thay đổi. Năm 2020, chị Tr đã viết đơn ly hôn, sau đó gia đình khuyên bảo, chị Tr đã rút đơn để vợ chồng hòa giải, nhưng anh H vẫn tụ tập bạn bè, tiếp tục chơi bời, nợ nần khiến chị Tr không chịu nổi. Nay chị Tr xin ly hôn ông đề nghị Tòa án xem xét cho chị Tr. Về con chung, anh H và chị Tr có ba con như chị Tr trình bày, các cháu đều khỏe mạnh. Ông đề nghị Tòa án giao cả ba con cho chị Tr nuôi vì anh H hiện không có nghề nghiệp, không đủ điều kiện để nuôi con. Vợ chồng ông sẽ có trách nhiệm giúp chị Tr chăm lo cho các cháu. Về tài sản chung, chị Tr và anh H không đóng góp gì với tài sản của gia đình ông, không có tài sản chung, công nợ chung.
Đại diện tổ dân phố Dân Chủ, phường LL cung cấp: Anh Đặng Thanh H và chị Phạm Thị Thùy Tr sau khi kết hôn thì sinh sống cùng bố, mẹ anh H. Những năm gần đây giữa vợ chồng anh, chị đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H ham chơi, cá độ bóng đá, nợ nần, phá tán tài sản gia đình, bố mẹ anh H và chị Tr đã khuyên bảo nhưng anh H không thay đổi. Nay chị Tr xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật. Đối với con nhỏ, đề nghị giao cả ba cháu cho chị Tr nuôi vì chị Tr có nghề nghiệp ổn định, có ông, bà nội phụ giúp chăm sóc các cháu. Anh H không nghề nghiệp, không đủ điều kiện nuôi con.
Cháu Đặng Thị Minh Hằng và cháu Đặng Thị Bích Ngân trình bày: Các cháu là con của bố H, mẹ Tr, các cháu không biết giữa bố mẹ mâu thuẫn như thế nào, nhưng bố và mẹ đã sống ly thân. Nay bố và mẹ ly hôn, các cháu xin ở cùng mẹ.
Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn vắng mặt không có lý do.
Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký là đúng pháp luật. Nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Đối với bị đơn đã không chấp hành đúng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Đề nghị căn cứ điều 28, điều 35, điều 39; điều 147; điều 227, điều 228; điều 238; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 56; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình 2014; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, đề nghị xử cho Phạm Thị Thùy Tr và anh Đặng Thanh H ly hôn, giao chị Tr trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung là Đặng Thị Minh Hằng, sinh ngày 15/12/2008, Đặng Thị Bích N, sinh ngày 06/10/2013 và Đặng Quốc K, sinh ngày 08/9/2019. Về cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung, công nợ chung không đặt ra xem xét. Về án phí, chị Tr pH chịu. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:
[1]. Đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Phạm Thị Thùy Tr cùng các tài liệu, chứng cứ đã giao nộp là hoàn toàn hợp lệ, đảm bảo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự về hình thức và nội dung đơn khởi kiện.
[2].Về thẩm quyền giải quyết: Đây là tranh chấp về ly hôn, nuôi con chung, nguyên đơn và bị đơn có hộ khẩu cư trú tại thành phố B nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố B theo quy định tại điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.
[3]. Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, thư ký và HĐXX đã chấp hành đúng pháp luật. Đối với nguyên đơn đã thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã không thực hiện đúng, đầy đủ quyền, nghĩa vụ theo quy định tại điều 70,72 của BLTTDS. Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin vắng mặt, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do nên HĐXX căn cứ điều 227, điều 228, điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[4]. Về nội dung:
Về quan hệ hôn nhân: Căn cứ lời khai của nguyên đơn cùng các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp cho thấy, chị Phạm Thị Thùy Tr cùng anh Đăng Thanh H đã kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường Trần Phú, thành phố B, tỉnh B ngày 25/03/2008, do đó quan hệ hôn nhân giữa chị Tr và anh H là hợp pháp.
Về mâu thuẫn: Lời khai của chị Phạm Thị Thùy Tr cùng lời khai của ông Đặng Văn Ngũ, xác minh tại chính quyền địa phương cho thấy, giữa chị Tr và anh H đã mâu thuẫn gay gắt từ năm 2019 đến nay, nguyên nhân do anh H ham chơi, không chịu làm ăn, chăm lo cho gia đình, vợ con, còn nợ nần nhiều dẫn đến vợ chồng mâu thuẫn, sống ly thân. HĐXX xét thấy tình trạng mâu thuẫn giữa chị Tr và anh H đã trầm trọng, kéo dài, gia đình đã nhiều lần hòa giải, nhưng không có kết quả, nay chị Tr kiên quyết ly hôn và đề nghị không hòa giải, căn cứ điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 HĐXX chấp nhận đơn khởi kiện của chị Tr, xử cho chị Phạm Thị Thùy Tr và anh Đặng Thanh H ly hôn.
Về con chung: Chị Tr và anh H có ba con chung là Đặng Thị Minh Hằng, sinh ngày 15/12/2008, Đặng Thị Bích Ngân, sinh ngày 06/10/2013 và Đặng Quốc Khánh, sinh ngày 08/9/2019. Chị Tr xin được nuôi cả ba con, đại diện gia đình anh H và đại diện chính quyền địa phương đều đề nghị Tòa án giao cho chị Tr nuôi con. Do anh H không có nghề nghiệp ổn định, thường xuyên vắng nhà, không đảm bảo điều kiện để chăm sóc, nuôi con, nên HĐXX quyết định giao cho chị Tr được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả ba con. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị Tr không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết. Sau khi ly hôn, anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở.
[5]. Về tài sản chung, công nợ chung: Chị Tr không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.
[6]. Về án phí: Nguyên đơn pH chịu án phí theo quy định của pháp luật.
[7]. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng điều 28, điều 35, điều 39; điều 147; điều 227, điều 228; điều 238; điều 271; điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Các điều 51, 56, 57; 81; 82; 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 27 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Thị Thùy Tr.
Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Thị Thùy Tr và anh Đặng Thanh H ly hôn.
Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Thùy Tr quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả ba con chung là: Đặng Thị Minh Hằng, sinh ngày 15/12/2008, Đặng Thị Bích Ngân, sinh ngày 06/10/2013 và Đặng Quốc Khánh, sinh ngày 08/9/2019.
Về cấp dưỡng nuôi con chung: Anh Đặng Thanh H không pH đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung do chị Tr không yêu cầu.
Sau khi ly hôn, anh H có quyền thăm nom con chung, không ai được cản trở anh thực hiện quyền này.
Về án phí: Chị Phạm Thị Thùy Tr pH chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp tại biên lai thu số AA/2018/0002056 ngày 06/5/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố B.
Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự
Bản án về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung số 54/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 54/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 06/08/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về