Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 19/2022/DS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LONG PHÚ, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 19/2022/DS-ST NGÀY 28/03/2022 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG

Ngày 28 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 86/2021/TLST- DS, ngày 15 tháng 7 năm 2021 về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 12/2022/QĐXXST - DS, ngày 21 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng N; trụ sở: Số X, đường L, phường T, quận B, Thành Phố Hà Nội.

Người đại diện hợp pháp: Đỗ Phong T – Chức vụ: Phó Phòng phụ trách P.KHKD Ngân hàng N - Chi nhánh huyện L; địa chỉ: Ấp X, thị trấn L, huyện L, tỉnh Sóc Trăng là người đại diện theo uy quyền cho nguyên đơn “Giấy ủy quyền ngày 10/3/2022” (Có mặt).

2. Bị đơn: Bà Lâm Thị Ngân N, sinh năm 1981; đia chỉ: Ấp TĐ, xã LĐ, huyện LP, tỉnh Sóc Trăng (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện lập ngày 24/6/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn ông Đỗ Phong Tùng trình bày:

Sau quá trình thỏa thuận thì Ngân hàng N Chi nhánh L – Phòng Giao Dịch Đ và bà Lâm Thị Ngân N thống nhất ký hợp đồng tín dụng số 01/UBDN/HĐTD ngày 31/08/2017, hạn mức tín dụng 100.000.000 đồng, lãi suất cho vay trong hạn 11%/năm, lãi suất nợ quá hạn 150%/lãi suất cho vay trong hạn, hạn trả ngày 28/08/2022. Tiêu dùng đời sống. Cho vay tín chấp, nguồn trả nợ từ lương lĩnh hàng tháng. Ngày 31/8/2017 Ngân hàng giải ngân và bà T nhận nợ số tiền là 100.000.000đồng và hạn trả nợ là ngày 28/08/2022. Thực hiện hợp đồng bà T chỉ trả được cho Ngân hàng 32.400.000đồng nợ gốc và 23.041.424đồng tiền lãi. Tính đến 28/3/2022 bà T còn nợ Ngân hàng tổng số tiền: 83.410.345đồng, trong đó nợ gốc 67.600.000đồng và nợ lãi là 15.810.345đồng. Mặc dù Ngân hàng đã áp dụng các biện pháp xử lý nợ nhưng bà T vẫn không thực hiện đúng như thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.

Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc bà Lâm Thị Ngân N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ đã quá hạn tính đến ngày 28/3/2022 là 83.410.345đồng đồng, bao gồm nợ gốc:

67.600.000 đồng, nợ lãi 15.810.345đồng đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký kết cho đến khi bà T trả hết nợ gốc cho Ngân hàng.

- Đối với bị đơn bà Lâm Thị Ngân N: Sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bà T, nhưng bà không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà T hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng ông vẫn vắng mặt không lý do. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà T để tham gia tố tụng tại phiên tòa sơ thẩm đến lần thứ hai nhưng bà vẫn vắng mặt không có lý do và cũng không cung cấp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

- Tại phiên toà, Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú tham gia phiên tòa trình bày ý kiến: Việc xác định quan hệ pháp luật tranh chấp và xác định tư cách của người tham gia tố tụng trong vụ án là đúng quy định của pháp luật; Việc tuân theo pháp luật của Thâm phan, Thư ký, Hôi đồng xet xư; nguyên đơn trong qua trinh giai quyết vu án kê tư khi thu ly vu an đến trươc thơi điêm Hội đồng xet xư vào nghi án đã chấp hành đung các quy đinh cua phap luât về tố tung dân sư riêng bị đơn chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Về nội dung vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra các chứng cứ và kết quả tranh luận tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; Điều 280, Điều 463, khoản 1 và khoản 5 Điều 466 cua Bộ luật dân sự 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Lâm Thị Ngân N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng số tiền còn nợ đã quá hạn tính đến ngày 28/3/2022 là 83.410.345đồng đồng, bao gồm nợ gốc: 67.600.000 đồng, nợ lãi 15.810.345đồng đồng và tiền lãi phát sinh theo hợp đồng đã ký kết cho đến khi bà T trả hết nợ gốc cho Ngân hàng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về tố tụng: Từ sau khi Tòa án thụ lý vụ án đã tiến hành tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án cho bị đơn bà Lâm Thị Ngân N, nhưng bà T không có ý kiến phản đối gì. Tòa án đã triệu tập hợp lệ bà T hai lần để tham gia tố tụng tại phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt không lý do. Tại phiên tòa bị đơn bà Lâm Thị Ngân N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vắng mặt bà T.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng buộc bị đơn bà Lâm Thị Ngân N có nghĩa vụ thanh toán cho Ngân hàng số tiền vay gốc là 67.600.000đồng: Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình, Ngân hàng có cung cấp cho Tòa án Hợp đồng tín dụng số 01/UBDN/HĐTD ngày 31/08/2017 xác định bên cho vay (Bên A) là Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng – Phòng giao dịch Đại Ngãi và bên vay (Bên B) là bà Lâm Thị Ngân N, tại mục bên B trong hợp đồng có chữ ký tên Lâm Thị Ngân N và các giấy tờ khác có liên quan xác định ngày 31/08/2017 Ngân hàng đã giải ngân số tiền 100.000.000đồng và bà T đã nhận đủ số tiền này. Xét thấy, việc ký kết hợp đồng tín dụng giữa Ngân hàng và bà Lâm Thị Ngân N là trên cở sở hai bên hoàn toàn tự nguyện. Tại thời điểm ký kết, các bên tham gia ký kết hợp đồng có đủ thẩm quyền và năng lực giao kết hợp đồng. Hợp đồng đảm bảo về mặt hình thức và nội dung, không trái pháp luật, đạo đức xã hội nên có hiệu lực pháp luật. Đối với bị đơn bà Lâm Thị Ngân N trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tiến hành tống đạt các tài liệu, chứng cứ mà bên nguyên đơn cung cấp và thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ cho bà T nhưng bà không có ý kiến phản đối gì xem như tự từ bỏ quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên đủ cở sở để Hội đồng xét xử khẳng định bà T có thực hiện việc vay vốn của Ngân hàng số tiền vay gốc là 100.000.000đồng đã trả được 32.400.000đồng là có thật. Do đó, Ngân hàng yêu cầu Tòa án buộc bà T có nghĩa vụ trả số tiền nợ gốc 67.600.000đồng cho Ngân hàng là có căn cứ, phù hợp theo quy định tại khoản 1 Điều 95 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Điều 280, Điều 463, Điều 466 Bộ luật dân sự năm 2015 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3]. Về lãi suất: Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của nguyên đơn buộc bà Lâm Thị Ngân N có nghĩa vụ trả số tiền lãi còn nợ tính đến ngày 28/3/2022 là 15.81.345đồng. Hội đồng xét xử xét thấy: Căn cứ Hợp đồng tín dụng số 01/UBDN/HĐTD ngày 31/08/2017 của bà Lâm Thị Ngân N với Ngân hàng xác định lãi suất thỏa thuận của các bên khi cho vay trong hạn là 11%/năm, lãi suất nợ quá hạn 150% lãi suất cho vay trong hạn. Lãi suất do các bên thỏa thuận là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010 nên Hội đồng xét xử chấp nhận. Mặc khác, theo bảng kê tính lãi của bà Lâm Thị Ngân N đến ngày 28/3/2022 do nguyên đơn cung cấp thì từ sau khi vay, bà T nay đã thanh toán cho nguyên đơn tiền lãi tính đến ngày 28/3/2022 là 23.041.424đồng, số tiền lãi còn nợ là 15.810.345đồng. Do vậy, việc bà T không thực hiện nghĩa vụ trả tiếp dư nợ gốc và lãi theo giao kết trong hợp đồng đã vi phạm hợp đồng cho vay mà các bên đã ký kết, bà T là người có lỗi và là người vi phạm hợp đồng nên phải chịu mọi hậu quả theo giao kết và theo quy định của pháp luật. Như vậy, bà T phải có nghĩa vụ hoàn trả cho Ngân hàng số tiền lãi theo giao kết trong hợp đồng tạm tính đến ngày 28/3/2022 là 15.810.345đồng và tiền lãi quá hạn của số nợ gốc chưa thanh toán theo mức lãi suất thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi trả xong nợ gốc là có căn cứ, phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 91 của Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao nêu rõ nội dung áp dụng án lệ về xác định lãi suất, việc điều chỉnh lãi suất trong hợp đồng tín dụng kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[4]. Từ những phân tích trên, bà Lâm Thị Ngân N phải có nghĩa vụ trả nợ cho Ngân hàng với tổng số tiền tính đến ngày 28/3/2022 là 83.410.345đồng (Tám mươi ba triệu bốn trăm mười nghìn ba trăm bốn mươi lăm đồng), trong đó tiền nợ gốc 67.600.000đồng (Sáu mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), tiền lãi là 15.810.345 đồng (Mười lăm triệu tám trăm mười nghìn ba trăm bốn mươi lăm đồng). Kể từ ngày 29/3/2022, bà T còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán của khoản vay, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà bà T phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

[6]. Từ những phân tích nêu trên, xét đề nghị của Vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long Phú là có căn cứ, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 1 Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Bà Lâm Thị Ngân N phải chịu 4.170.517đồng án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 280, 463 và 466 Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91, Điều 95 Luật các tổ chức tín dụng năm 2010; Án lệ số 08/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 17 tháng 10 năm 2016 và được công bố theo Quyết định số 698/QĐ-CA ngày 17 tháng 10 năm 2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Toà án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng N, buộc bà Lâm Thị Ngân N có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N dư nợ tính đến ngày 28/3/2022 với số tiền vay gốc là 67.600.000đồng (Sáu mươi bảy triệu sáu trăm nghìn đồng), tiền lãi là 15.810.345đồng (Mười lăm triệu tám trăm mười nghìn ba trăm bốn mươi lăm đồng), tổng cộng là 83.410.345đồng (Tám mươi ba triệu bốn trăm mười nghìn ba trăm bốn mươi lăm đồng).

“Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm, khách hàng vay còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp trong hợp đồng tín dụng, các bên có thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay”.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lâm Thị Ngân N phải chịu 4.170.517đồng (Bốn triệu một trăm bảy chục nghìn năm trăm mười bảy đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn Ngân hàng N không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm, hoàn trả cho Ngân hàng Nsố tiền tạm ứng án phí đã nộp là 1.921.205 đồng (Một triệu chín trăm hai mươi mốt nghìn hai trăm lẻ năm đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0009288, ngày 07/7/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Riêng bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền giao kết thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

246
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hợp đồng tín dụng số 19/2022/DS-ST

Số hiệu:19/2022/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 28/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về