Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 84/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGHĨA HƯNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 84/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 14/06/2022 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hưng mở phiên toà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 20/2022/TLST- HNGĐ ngày 25 tháng 01 năm 2022: Về vụ án Kiện xin ly hôn theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 40/2022/QĐXXST - DS ngày 24/5/2021 giữa:

Nguyên đơn: Ông Phạm Tuấn A - sinh năm 1960;

Địa chỉ: Xóm x, xã L, huyện H, Nam Định.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn: Bà Trần Thị N, trợ giúp viên pháp lý – trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Bà Vũ Thị C - sinh năm 1963.

Địa chỉ: Xóm y, xã L, huyện H, Nam Định.

Tại phiên tòa có mặt ông A bà Ngọc, vắng mặt bà C.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện cũng như lời khai của nguyên đơn là ông Phạm Tuấn A trong quá trình giải quyết trình bày: Ông kết hôn với bà Vũ Thị C vào tháng 10/1993 trên cơ sở tự nguyện, được UBND xã L, huyện H, tỉnh Nam Định cấp đăng ký kết hôn.

Ngay sau khi được cấp đăng ký kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau đã xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng trong cuộc sống cũng như trong sinh hoạt vì vậy hay xảy ra cãi chửi nhau. Chúng tôi được gia đình hai bên khuyên giải nhiều lần nhưng không thành, vợ chồng ly thân nhau từ năm 2005. Trong thời gian ly thân không ai quan tâm đến ai. Nay ông xác định đình cảm vợ chồng giữa ông và bà C không còn, đề nghị Toà án nhân dân huyện Nghĩa Hưng giải quyết ly hôn cho ông đươc ly hôn bà Vũ Thị C. Về con chung theo ông vợ chồng có hai con chung cháu Phạm Văn N sinh ngày 10/02/1999 và cháu Phạm Thị Q sinh ngày 20/07/1994. Hiện cả hai con chung đã đủ 18 tuổi trưởng thành và tư lập được vợ chồng ly hôn không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi các cháu.Về tài sản chung ông thống nhất xác định vợ chồng có nhưng tự vợ chồng giải quyêt, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm ông đề nghị giải quyết theo quy định.

Tại phiên tòa hôm nay bà Vũ Thị C vắng mặt. Lời khai của bà C tại các buổi làm việc thể hiện: Bà xác định việc ông Tuấn A khai về việc kết hôn giữa ông bà là đúng, vợ chồng được UBND xã L huyện H, tỉnh Nam Định cấp đăng kí kết hôn vào năm 1993. Sau khi được cấp đăng ký kết hôn vợ chồng chung sống không hạnh phúc, nguyên nhân là do ông Tuấn A không chí thú làm và còn vi phạm pháp luật, bà và gia đình đã khuyên giải nhng ông Tuấn A không thay đổi do vậy vợ chồng ly thân nhau từ năm 2005. Nay ông A có đơn xin ly hôn quan điểm của bà nhất trí ly hôn. Về con chung bà thống nhất vợ chồng có hai con chung là cháu Phạm Thị Q, sinh ngày 20/07/1994 và cháu Phạm Văn N, sinh ngày 10/02/1999 . Hiện cả hai con chung đã đủ 18 tuổi trưởng thành và tư lập được vợ chồng ly hôn không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi các cháu. Về tài sản chung bà xác định vợ chồng không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm bà đề nghị giải quyết theo quy định.

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho nguyên đơn trình bày: Đề nghị tòa án giải quyết cho ông Phạm Tuấn A được ly hôn bà Vũ Thị C, con chung đã đủ 18 tuổi trưởng thành và tư lập được không yêu cầu giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung không yêu cầu Tòa án giải quyết Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên toà phát biểu ý kiến:

+ Về tố tụng: Qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến xét xử tại phiên toà hôm nay Thẩm Phán thụ lý giảỉ quyết cũng như Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung:

Quan hệ hôn nhân: Xét thấy hôn nhân giữa ông A và bà C không còn, vợ chồng ly thân nhiều năm, ông A có đơn xin ly hôn bà C cũng nhất trí đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điều 55 Luật hôn nhân gia đình xử công nhận thuận tình ly hôn. Về con chung các côn đã trưởng thành, tự lập được, không yêu cầu Toà án giải quyết cấp dưỡng nuôi con chung, tài sản chung không yêu cầu Toà án giải quyết. Về án phí dân sự sơ thẩm đề nghị Hội đồng xét xử tuyên ông Anh phải nộp.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên Toà, căn cứ vào lời trình bày của đương sự và trên cơ sở tranh luận tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Ông Phạm Tuấn Anh và bà Vũ Thị C đăng ký hộ khẩu thường trú và hiện đang cư trú tại xã L huyện H, tỉnh Nam Định, việc ông A có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng giải quyết vụ án của ông bà được Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng thụ lý giải quyết vụ án là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[1.2] Bà Vũ Thị C đã nhận được giấy triệu tập phiên toà hợp lệ nhưng tại phiên tòa hôm nay bà vắng mặt có đơn xin không tham gia phiên toà vì vậy Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng xét xử vắng mặt bà C là có căn cứ và phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung: Cuộc hôn nhân giữa ông Phạm Tuấn A và bà Vũ Thị C vào năm 1993 được UBND xã L cấp đăng ký kết hôn là một hôn nhân tự do, tiến bộ và có đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật. Ngay sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống không hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh, nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, trong sinh hoạt và trong làn ăn kinh tế dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra xô sát cãi chửi nhau. Mặc dù được gia đình hai bên khuyên giải nhưng không thành. Nay ông A xác định tình cảm vợ chồng không còn đề nghị Tòa án nhân dân huyện Nghĩa Hưng giải quyết vợ chồng được ly hôn, bà C xác định mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng,vợ chồng ly thân đã nhiều năm và cũng nhất trí thuận tình ly hôn. Xét việc thuận tình ly hôn của ông A và bà C thấy là hoàn toàn tự nguyện, không trái đạo đức xã hội, không vi phạm điều cấm của pháp luật vì vậy được chấp nhận.

[3] Về con chung: Ông Phạm Tuấn A và bà Vũ Thị C đều thống nhất xác định vợ chồng có vợ chồng có hai con chung là cháu Phạm Văn N, sinh ngày 10/02/1999 và cháu Phạm Thị Q, sinh ngày 20/07/1994. Hiện cả hai con chung đã đủ 18 tuổi trưởng thành và tự lập được vợ chồng ly hôn không yêu cầu Toà án giải quyết cấp dưỡng nuôi các cháu.

[4] Về tài sản chung vợ chồng: Ông Phạm Tuấn A và bà Vũ Thị C thống nhất xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy không đặt ra vấn đề xem xét giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm ông Phạm Tuấn A phải nộp theo quy định của pháp luật.

[6] Xét quan điểm của người bảo vệ quyền lợi cho nguyên đơn là có cơ sở chấp nhận Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Nghĩa Hưng về việc giải quyết vụ án là phù hợp.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 55, Luật hôn nhân và gia đình.

Căn cứ các Điều 147, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ các Điều 6 và 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

1 - Xử thuận tình ly hôn giữa ông Phạm Tuấn A và bà Vũ Thị C.

2 - Án phí dân sự sơ thẩm ông Phạm Tuấn A phải nộp 300.000đ, số tiền tạm ứng án phí 300.000đ ông A đã nộp theo biên lai số: 00001340 ngày 20/01/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Nghĩa Hưng được đối trừ, ông A đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Báo cho người có mặt biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt bản án.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 84/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:84/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nghĩa Hưng - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về