Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ Q, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 22/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Q xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 43/2022/TLST - HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 về việc “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 21/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 20 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 26/2022/QĐST – HNGĐ ngày 07 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị Hồng L, sinh năm: 2000; địa chỉ: Khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt)

- Bị đơn: Anh Vũ Văn Tuấn A, sinh năm: 1993; địa chỉ: Khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. (đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên hòa giải nguyên đơn chị Vũ Thị Hồng L trình bày: Chị và anh Vũ Văn Tuấn A kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 13 tháng 8 năm 2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau tại khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Vợ chồng chung sống hạnh phúc đến khoảng cuối năm 2021 thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không có sự tin tưởng, tôn trọng nhau nên thường xuyên xảy ra cãi nhau. Hiện tại chị và anh Tuấn A mỗi người sống một nơi, không ai quan tâm tới ai. Nay chị không còn yêu thương anh Tuấn A nữa nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Vũ Văn Tuấn A.

Về con chung: Chị và anh Vũ Văn Tuấn A có hai con chung là Vũ Thị Ánh D, sinh ngày 25/02/2019 và Vũ Văn Bảo A, sinh ngày 19/4/2021. Khi ly hôn chị đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Vũ Văn Bảo A còn con chung Vũ Thị Ánh D, anh Tuấn A trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung: Chị và anh Vũ Văn Tuấn A không có tài sản gì chung nên chị không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai và tại phiên hòa giải bị đơn anh Vũ Văn Tuấn A trình bày:

Về tình cảm: Anh và chị Vũ Thị Hồng L kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 13 tháng 8 năm 2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống anh chị hạnh phúc được khoảng hơn một năm thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên xảy ra cãi nhau. Nguyên nhân do vợ chồng tính tình khác biệt, không có sự thông cảm, chia sẻ với nhau trong cuộc sống. Ngoài ra do anh tình cờ phát hiện trong điện thoại của chị L có tin nhắn tình cảm với người đàn ông khác nên vợ chồng xảy ra cãi nhau. Chị L bỏ đi khỏi nhà và sống ly thân với anh từ khoảng tháng 3 năm 2022. Quan điểm của anh vẫn còn tình cảm với chị L nên anh không muốn ly hôn với chị Vũ Thị Hồng L.

Về con chung: Anh Vũ Văn Tuấn A trình bày, anh và chị L có hai con chung là Vũ Thị Ánh D, sinh ngày 25/02/2019 và Vũ Văn Bảo A, sinh ngày 19/4/2021. Khi ly hôn anh Tuấn A đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Vũ Thị Ánh D, còn chị Vũ Thị Hồng L nuôi con chung Vũ Văn Bảo A đến khi thành niên, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung cho ai.

Về tài sản chung: Anh Tuấn A trình bày, vợ chồng anh không có tài sản chung, nên không yêu cầu tòa giải quyết.

Tại phiên tòa chị L và anh Tuấn A đều vắng mặt. Chị L có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt. Anh Tuấn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

Tòa án tiến hành xác minh tại địa phương nơi chị L và anh Tuấn A cư trú thấy: Chị L và anh Tuấn A kết hôn trên cơ sở tự nguyện đăng ký kết hôn hợp pháp tại Uỷ ban nhân dân phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 13 tháng 8 năm 2018. Sau khi kết hôn chị L và anh Tuấn A chung sống tại khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống chị L và anh Tuấn A hạnh phúc một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống không có sự tin tưởng nhau nên vợ chồng xảy ra to tiếng, cãi vã. Chị L đã bỏ về ngoại sống từ tháng 3 năm 2022 đến nay, vợ chồng mỗi người sống một nơi.

Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng chị L và anh Tuấn A không thống nhất được với nhau về việc giải quyết vụ án.

Đại diện Viện kiểm sát tại phiên toà có quan điểm:

- Về tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa theo đúng quy định.

- Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định tại Điều 70, Điều 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đầy đủ quy định tại Điều 70, Điều 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Ý kiến về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Xử chị Vũ Thị Hồng L được ly hôn với anh Vũ Văn Tuấn A. Về con chung: Giao con chung Vũ Văn Bảo A, sinh ngày 19/4/2021 cho chị Vũ Thị Hồng L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên. Giao con chung Vũ Thị Ánh D, sinh ngày 25/02/2019 cho anh Vũ Văn Tuấn A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên. Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Về tài sản chung, đương sự không yêu cầu nên đề nghị Tòa án không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

- Về thẩm quyền xét xử của Tòa án: Chị Vũ Thị Hồng L khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Vũ Văn Tuấn A có địa chỉ tại khu Q, phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh. Căn cứ vào quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh.

[2] Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A tự nguyện đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường M, thị xã Q, tỉnh Quảng Ninh vào ngày 13 tháng 8 năm 2018. Do vậy hôn nhân của chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ.

Trong thời gian chung sống vợ chồng chị L và anh Tuấn A chỉ hạnh phúc một thời gian sau đó phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, mâu thuẫn trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, vợ chồng không có sự tin tưởng nhau. Hiện tại chị L và anh Tuấn A cũng đã sống ly thân nhau, mỗi người một nơi, đều không quan tâm đến nhau. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cuộc hôn nhân của chị L và anh Tuấn A đã ở mức độ mâu thuẫn trầm trọng, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị Vũ Thị Hồng L.

- Về con chung: Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A có hai con chung là Vũ Thị Ánh D, sinh ngày 25/02/2019 và Vũ Văn Bảo A, sinh ngày 19/4/2021. Chị L có quan điểm đề nghị được trực tiếp nuôi con chung Vũ Văn Bảo A còn con chung Vũ Thị Ánh D anh Tuấn A trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Anh Tuấn A cũng có quan điểm nếu vợ chồng ly hôn thì đồng ý như quan điểm của chị L về con chung.

Hội đồng xét xử xét thấy, hiện tại cháu A đang ở cùng chị L, cháu Dương đang ở cùng anh Tuấn A. Cả chị L và anh Tuấn A đều có nguyện vọng giao cháu Vũ Văn Bảo A cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, giao cháu Vũ Thị Ánh D cho anh Tuấn A trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Do đó có căn cứ chấp nhận yêu cầu của chị L về con chung. Chị L và anh Tuấn A đều không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết về việc cấp dưỡng nuôi con chung - Về tài sản chung: Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị Vũ Thị Hồng L phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 6 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Chị L và anh Tuấn A có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định tại Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 1 Điều 238; Điều 271, khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57; khoản 1 Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Khoản 1 Điều 6, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Điều 26 Luật Thi hành án dân sự.

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Vũ Thị Hồng L.

- Về quan hệ hôn nhân: Chị Vũ Thị Hồng L được ly hôn anh Vũ Văn Tuấn A.

- Về con chung: Giao con chung Vũ Văn Bảo A, sinh ngày 19/4/2021 cho chị Vũ Thị Hồng L trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Giao con chung Vũ Thị Ánh D, sinh ngày 25/02/2019 cho anh Vũ Văn Tuấn A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi con chung thành niên (đủ 18 tuổi). Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A không phải cấp dưỡng nuôi con chung và có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con chung mà không ai được cản trở.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Vũ Thị Hồng L phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí mà chị L đã nộp theo biên lai số 0010633 ngày 09 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Q. Chị L đã nộp đủ án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Vũ Thị Hồng L và anh Vũ Văn Tuấn A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

92
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân và gia đình số 22/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:22/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Quảng Yên - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về