Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con số 219/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHỢ MỚI, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 219/2022/HNGĐ-ST NGÀY 11/08/2022 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 11 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 503/2022/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 5 năm 2022 về việc “tranh chấp về hôn nhân và gia đình ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 362/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022, Quyfết định hoãn phiên tòa số 336/2022/QĐST- HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Lê Nguyễn Th1 Th, sinh năm 1988; địa chỉ: tổ 14, khu phố HT, thị trấn CGc, huyện CG, tỉnh Long An; vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Văn Hoài V, sinh năm 1989; địa chỉ: ấp LH2, xã LĐA, huyện CM, tỉnh An Giang; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, tờ tự khai và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Lê Nguyễn Th1 Th trình bày, bà Th và ông Lê Văn Hoài V tự tìm hiểu và tiến tới hôn nhân vào năm 2018, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TrB (nay là Ủy ban nhân dân thị trấn CG), huyện CG, tỉnh Long An ngày 07/9/2018. Sau khi kết hôn thì hai vợ chồng chung sống tại địa chỉ tổ 14, khu phố HT, thị trấn CGc, huyện CG, tỉnh Long An. Khoảng tháng 10/2018, hai vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do tiền bạc, bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyền cãi vã, gây gổ nhau, mỗi lần cự cãi thì ông V thường giấu dao trong người, hăm dọa và đòi giết mẹ bà. Khi bà mang bầu vào khoảng tháng 8/2018, thì vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do không cùng quan điểm sống, ông V đòi đi với người phụ nữ khác để đáp ứng nhu cầu quan hệ tình dục, khi bà đang mang bầu không cho thì ông V đòi bỏ đứa bé do bà mang thai. Ông V nói là nếu mang bầu mệt quá, không cho ông quan hệ tình dục thì bỏ đưa bé đi. Thời gian mâu thuẫn của hai vợ chồng kéo dài từ lúc bà mang bầu đến tháng 10/2018 thì ông V bỏ nhà đi và không còn chung sống với bà. Vợ chồng đã ly thân từ tháng 10/2018. Khi ly thân, thì bà đang mang bầu, ông V không quan tâm, cũng như chăm lo cho bà.

Nhận thấy tình cảm không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông V.

- Về con chung: vợ chồng có 01 con chung tên Lê Ngọc Thiên Th1, sinh ngày 12/4/2019. Hiện nay, con chung đang do bà Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Khi ly hôn, bà yêu cầu được tiếp tục nuôi con, không yêu cầu ông V cấp dưỡng nuôi con. Hiện nay, bà đang làm Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân ban Mặt trận tổ quốc thị trấn CG kiêm nhân viên giảm nghèo. Thu nhập bình quân mỗi tháng là 7.000.000 đồng, bà đủ điều kiện nuôi con.

- Về tài sản chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Lê Văn Hoài V trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, trình bày, ông V thống nhất với lời trình bày của bà Th, ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà Th vì tình cảm vợ chồng không còn và không muốn sống chung với nhau nữa.

- Về con chung: vợ chồng có 01 con chung, ngày tháng năm sinh và tên của con thì ông không biết. Ông V chỉ biết là con gái. Hiện nay, con chung đang sống với bà Th, và phát triển bình thường. Từ lúc con ông sinh ra đến giờ ông chưa bao giờ chăm con, chỉ thăm con được 01 lần; sau khi ly hôn ông V yêu cầu nuôi con, hiện ông làm công nhân cơ khí tư nhân, ai thuê thì làm. Thu nhập bình quân mỗi tháng là 9.000.000 đồng, do ông làm công theo ngày nên không có bảng lương. Lý do ông V yêu cầu nuôi con là do: mặc dù ông chưa từng chăm sóc, nhưng ông được người lớn chỉ dạy nên ông nghĩ là sẽ chăm sóc tốt hơn, nên ông yêu cầu nuôi con, không yêu cầu bà Th cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa:

- Bà Lê Nguyễn Th1 Th có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, tại đơn bà cam kết vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu về nuôi con, cũng như yêu cầu về tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt bà Th1 Th.

- Ông Lê Văn Hoài V vắng mặt tại phiên tòa; quá trình giải quyết vụ án ông V có ý kiến đồng ý ly hôn, nhưng có tranh chấp về con chung, nhưng tại phiên tòa ông V vắng mặt lần thứ 2 không có lý do, nên Hội đồng xét xử thống nhất đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự .

- Ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa:

Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định tại các Điều 70, 71 và 234 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Lê Nguyễn Th1 Th, tại phiên tòa có đơn xin xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 xét xử vắng mặt bà Th là có cơ sở.

Bị đơn ông Lê Văn Hoài vắng mặt tại phiên tòa, nên Hội đồng xét xử đưa vụ án ra xét xử theo Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án:

Về hôn nhân: Bà Lê Nguyễn Th1 Th và ông Lê Văn Hoài V tự tìm hiểu và tiến đến hôn nhân, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TrB, huyện Cần Giộc, tỉnh Long An năm 2018, là hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Quá trình giải quyết vụ án, ông V thừa nhận mâu thuẫn vợ chồng và đã không còn sống chung từ năm 2018, ông đồng ý ly hôn với bà Th; nên căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình công nhận thuận tình ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Lê Ngọc Thiên Th1, sinh ngày 12/4/2019. Cháu Th1 hiện đang sống cùng với bà Th, khi ly hôn bà Th1 yêu cầu được nuôi con chung, không yêu cầu ông V cấp dưỡng. Ông V yêu cầu được nuôi con chung và không yêu cầu cấp dưỡng.

Xét thấy, việc giao con chưa thành niên cho vợ hay chồng nuôi cần xem xét đến điều kiện phát triển của các cháu. Từ khi bà Th mang thai thì ông V đã bỏ nhà đi đến nay. Cháu Th1 từ trước nay sống với bà Th vẫn phát triển bình thường về thể chất và tinh thần. Vì vậy, để đảm bảo ổn định cuộc sống các cháu, nghĩ nên tiếp tục giao các cháu cho bà Th chăm sóc, nuôi dưỡng. Do bà Th không yêu cầu cấp dưỡng nên không xem xét.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết.

Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại các Điều 55, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Bà Lê Nguyễn Th1 Th khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Lê Văn Hoài V, ông V cư trú trên địa bàn huyện Chợ Mới. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa ngày 20/7/2022, bà Th có mặt tại phiên tòa, đồng thời bà có đơn đề nghị xét xử vắng mặt do điều kiện đi lại khó khăn, ông V đã được Tòa án cấp, tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định, nhưng vẫn vắng mặt. Do vậy, Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227, 228 của Bộ luật tố tụng dân sự thống nhất, xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định pháp luật tố tụng.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Nguyễn Th1 Th và ông Lê Văn Hoài V kết hôn do cả hai tự nguyện, không bị ép buộc, bà Th và ông V có đăng ký kết hôn, nên việc bà Th, ông V kết hôn là đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại Điều 8, 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, tại biên bản hòa giải ngày 30/6/2022, cả bà Th và ông V khẳng định không còn tình cảm, giữa bà Lê Nguyễn Th1 Th và ông Lê Văn Hoài V thuận tình ly hôn, bà Th và ông V đều thống nhất về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng xuất phát từ việc ông V không chăm lo cho cuộc sống gia đình; ông, bà đã tự sống ly thân từ năm 2018 đến nay, từ khi sống ly thân ông V cũng không có liên lạc với vợ, không chăm lo cho con, không biết tên con. Do giữa bà Th và ông V thuận tình ly hôn, nên Hội đồng xét xử thống nhất công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Th và ông V theo quy định tại Điều 55 Luật hôn nhân và Gia đình.

[2.2] Về quan hệ con chung: bà Th, ông V đều xác định, giữa bà Th và ông V chỉ có 01 con chung tên Lê Ngọc Thiên Th1, sinh ngày 12/4/2019, cả bà Th và ông V đều có yêu cầu nuôi con chung, nhưng tại biên bản ghi nhận lời khai, cũng như biên bản hòa giải ghi nhận ý kiến của ông V, thì ông đều trình bày từ khi cháu Th1 sinh ra tới thời điểm ly hôn, ông không ở gần chăm sóc con, không biết tên con, ngày tháng, năm sinh của con.

Xét thấy, việc ông V yêu cầu nuôi con, nhưng lại không biết tên con, năm sinh của con, điều này cho thấy ông V không hề chăm lo, chăm sóc cho con; hơn nữa cháu Th1 đã được bà Th chăm sóc, nuôi dưỡng từ nhỏ, ông V cũng thừa nhận là con được chăm sóc, nuôi dưỡng tốt, tại phiên tòa ông V vắng mặt, ông V đã tự từ bỏ quyền yêu cầu của mình về con chung, nên ông phải chịu hậu quả pháp lý về việc vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, để đảm bảo ổn định cuộc sống cho cháu Th1, giúp cháu phát triển tốt về thể chất, tinh thần; nên Hội đồng xét xử thống nhất giao cháu Th1 cho bà Th tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con chung, do bà Th không đề cập việc cấp dưỡng nuôi con, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Th, ông V xác định không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết nên không đề cập giải quyết.

[2.4] Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Lê Nguyễn Th1 Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Ông Lê Văn Hoài V không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 5, các Điều 55, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 144, 147, 271, 273, 280 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Lê Nguyễn Th1 Th đối với bị đơn ông Lê Văn Hoài V;

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa bà Lê Nguyễn Th1 Th và ông Lê Văn Hoài V.

Giấy chứng nhận kết hôn số 75/2018 ngày 07 tháng 9 năm 2018 do Ủy ban nhân dân xã TrB (nay là thị trấn CG), huyện CG, tỉnh Long An cấp cho bà Lê Nguyễn Th1 Th và ông Lê Văn Hoài V, không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao cho bà Lê Nguyễn Th1 Th được trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Lê Ngọc Thiên Th1, sinh ngày 12/4/2019. Ông Lê Văn Hoài V không phải cấp dưỡng nuôi dạy con chung.

Bà Lê Nguyễn Th1 Th1 Th cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông Lê Văn Hoài V trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: không đề cập giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: Bà Lê Nguyễn Th1 Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm 300.000 (ba trăm nghìn) đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí 300.000 (ba trăm nghìn) đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0004679 do Chi cục Thi hành án dân sự huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang cấp ngày 27 tháng 5 năm 2022; bà Lê Nguyễn Th1 Th đã nộp đủ án phí.

Ông Lê Văn Hoài V không phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết, bà Lê Nguyễn Th1 Th, ông Lê Văn Hoài V, có quyền kháng cáo để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án dân sự, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

168
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình ly hôn, nuôi con số 219/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:219/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chợ Mới - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về