Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 217/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG

BẢN ÁN 217/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH, LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện A mở xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2021/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 02 năm 2021 về việc “Tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 314/2021/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 342/2021/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Ông Cây D, sinh năm 1995, cư trú: ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.

Bị đơn: Bà Pha La Hi G, sinh năm 2001, cư trú: ấp L, xã V, huyện A, tỉnh An Giang.

(Ông Cây D có đơn xin vắng mặt, bà G vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai và các tài liệu kèm theo ông Cây D trình bày: Ông và bà Pha La Hi G là người dân tộc Chăm, bản thân ông có thể nghe, đọc và hiểu được Tiếng Việt nên không cần người phiên dịch. Hôn nhân của ông và bà Hi G là do mai mối được hai bên gia đình đồng ý đứng ra tổ chức lễ cưới vào năm 2017, có thực hiện việc đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ ngày 18/6/2019.

Sau khi kết hôn ông bà về nhà ông D ở xã Đ sinh sống, thời gian đầu chung sống hạnh phúc đến khoảng tháng 10/2019 thì vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do bà Hi G không chăm lo gia đình, ông khuyên ngăn thì vợ chồng xảy ra tranh cãi. Đến cuối năm 2019 thì tự ly thân, gia đình hai bên đã hàn gắn nhưng không thành, nay nhận thấy tình cảm không còn, có quay về chung sống cũng không hạnh phúc nên ông quyết định ly hôn.

Về con chung: Có 01 con chung tên Nu Rul Hus N, sinh ngày 31/7/2017, hiện do bà Hi G nuôi dạy. Khi ly hôn ông đồng ý bà Hi G được tiếp tục nuôi con chung và không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài liệu chứng cứ: Các tài liệu chứng cứ các đương sự giao nộp đã được thẩm tra và công khai trong quá trình hòa giải, các đương sự không có ý kiến gì về các tài liệu chứng cứ và tại phiên tòa không ai giao nộp bổ sung thêm tài liệu chứng cứ khác.

Trong quá trình thụ lý, hòa giải Tòa án đã tiến hành cấp tống đạt cho bà Pha La Hi G theo quy định nhưng bà Hi G không có mặt theo các thông báo của Tòa án. Tòa án tiến hành xác minh nơi cư trú và tình trạng hôn nhân của ông Cây D và bà Hi G để giải quyết vụ án theo thủ tục chung.

Chứng cứ mà Tòa án thu thập được: Xác định bà Hi G có nơi cư trú tại ấp L, xã V, huyện A, tỉnh An Giang. Đồng thời, mâu thuẫn vợ chồng giữa ông Cây D và bà Hi G đúng như lời trình bày của ông D.

Tại phiên tòa, ông Cây D vắng mặt, tuy nhiên trong quá trình giải quết vụ án ông đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng bà Hi G đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt ông, bà theo thủ tục chung.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về tuân thủ pháp luật của Thẩm phán trong ghi lời khai, thủ tục xét xử vắng mặt, xác định quan hệ tranh chấp, tư cách người tham gia tố tụng… là hoàn toàn phù hợp với pháp luật tố tụng dân sự. Đối với thành phần Hội đồng xét xử không có thành viên nào thuộc đối tượng phải thay đổi, việc xét hỏi tại phiên tòa, thời hạn xét xử cũng như thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.

Quan điểm của vị đại diện Viện kiểm sát về nội dung: Yêu cầu của nguyên đơn có căn cứ nên đề nghị chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Ông Cây D khởi kiện yêu cầu ly hôn với bà Pa La Hi G. Đồng thời, bà Hi G cư trú trên địa bàn huyện A. Xét đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.

Về sự vắng mặt của đương sự: Ông Cây D vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt; bà Hi G vắng mặt lần hai không lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông bà theo Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.

[2] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa ông Cây D và bà Hi G là do mai mối, đồng ý tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Đ vào năm 2019 nên phát sinh quyền và nghĩa vụ được xem là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ. Do đó, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nên thụ lý, giải quyết theo Điều 53 của Luật hôn nhân và gia đình.

[2.1] Xét yêu cầu của ông Cây D xin ly hôn với bà Hi G, Hội đồng xét xử xét thấy ông bà đã không chung sống với nhau từ cuối năm 2019 đến nay, bản thân ông Cây D thừa nhận nhiều lần được gia đình hai bên hàn gắn nhưng ông bà không thể tiếp tục chung sống, nhận thấy không có khả năng quay về chung sống nên ông xin ly hôn. Nguyên nhân ông trình bày phù hợp với nội dung xác minh của Tòa án tại địa phương. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu xin ly hôn của ông Cây D là có căn cứ, được chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Trong quá trình chung sống có 01 con chung tên Nu Rul Hus N, sinh ngày 31/7/2017, hiện do bà Hi G nuôi dạy, lời khai trên phù hợp với bản trích lục giấy khai sinh số 638 ngày 18/6/2019, hiện con chung đang được bà Hi G và gia đình hăm sóc.

Xét yêu cầu về con chung sau khi ly hôn của ông Cây D đồng ý để bà Hi G và gia đình tiếp tục chăm sóc Hội đồng xét thấy: Từ khi ly thân đến nay con chung được bà Hi G cùng gia đình chăm sóc và phát triển tốt, Hội đồng xét xử xét thấy việc thay đổi chỗ ở, hoàn cảnh sống đột ngột sẽ ảnh hưởng đến tâm sinh lý và sự phát triển của các cháu sau này.

Từ những căn cứ nêu trên, xét thấy cần tiếp tục giao 02 con chung cho bà Hi G cùng gia đình chăm sóc, nuôi dưỡng.

Hội đồng xét xử cũng giải thích cho ông Cây D biết: Theo quy định của pháp luật, khi ly hôn bên không nuôi con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Do không ghi nhận được ý kiến của bà Hi G nên không xem xét yêu cầu cấp dưỡng. Khi nào bà Hi G có yêu cầu thì sẽ giải quyết bằng một vụ kiện khác.

Hội đồng xét xử giải thích cho các đương sự biết: Bà Hi G cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông bà trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

[2.3] Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Ông Cây D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Ông Cây D là nguyên đơn nên phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Bà Hi G không phải chịu án phí nào khác.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 273 và Điều 280 của Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 9, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Cây D.

1. Về hôn nhân: Ông Cây D được ly hôn với bà Pha La Hi G Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 83 ngày 18/6/2019 của Uỷ ban nhân dân xã Đ mang tên Cây D và bà Pha La Hi G không còn giái trị pháp lý.

2. Về con chung: Bà Hi G được tiếp tục nuôi cháu Nu Rul Hus N, sinh ngày 31/7/2017, ông Cây D không phải cấp dưỡng nuôi con.

Bà Hi G cùng các thành viên gia đình không được cản trở ông Cây D trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Toà án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, buộc cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định.

3. Về án phí: Ông Cây D phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được chuyển từ tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0006956 ngày 24/02/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện A (ông Cây D đã nộp đủ).

4. Về quyền kháng cáo: Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 30/6/2021), các đương sự được quyền kháng cáo để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh An Giang xét xử phúc thẩm. Riêng đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo 15 ngày được tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án tại nơi cư trú.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

236
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tranh chấp hôn nhân gia đình, ly hôn, nuôi con chung số 217/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:217/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về