Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN YÊN THÀNH - TỈNH NGHỆ AN

BẢN ÁN 70/2021/HS-ST NGÀY 29/06/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 29 tháng 6 năm 2021,tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Yên Thành,tỉnh Nghệ An xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 66/2021/HSST, ngày 09 tháng 6 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 68/2021/QĐ XXST-HS ngày 18/6/2021 đối với bị cáo:

Họ và tên: Phan Thị L (Tên gọi khác: không); Giới tính: nữ; Sinh ngày 20 tháng 02 năm 1973 tại huyện D, tỉnh Nghệ An; Nơi cư trú: xóm 8, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không;Trình độ học vấn: 08/12; Họ tên cha: Phan Xuân D (đã chết); Họ tên mẹ: Phạm Thị M, sinh năm 1945; Anh chị em ruột: có 03 người, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chồng: Lê Văn A, sinh năm 1976; Con: có 03 người con, lớn nhất sinh năm 2000, nhỏ nhất sinh năm 2012;Tiền án, tiền sự: không; Bị cáo bị bắt tạm giữ từ ngày 24/4/2021 đến ngày 30/4/2021, hiện đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 06/5/2021 đến nay ( Bị cáo tại ngoại có mặt tại phiên tòa)

* Người bị hại:

+/Bà Phan Thị N, sinh năm 1973.( Vắng mặt) Trú tại: xóm T, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.

+/ Chị Nguyễn Thị N, sinh năm 1993. ( Vắng mặt) Trú tại: xóm T, xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 09 giờ 00 phút ngày 24/4/2021, Phan Thị L đi nhờ xe của người đi đường đi từ xóm 8, xã D, huyện D đến chùa Tạnh thuộc xóm C, xã H, huyện Y để thắp hương cầu an. Khi vào chùa L đặt lễ vật lên bàn thờ rồi thắp hương cầu khấn, khoảng 15 phút thì L ra về. Khi L đi đến cạnh cửa nách gần cung T của chùa T thì nhìn thấy có một chiếc túi xách màu đen của bà Phan Thị N, sinh năm 1973, trú tại xóm T, xã D, huyện D để ở bên cửa nách gần cung Tam Bảo không có người trông coi, nên L đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. L đi đến chỗ để chiếc túi xách, rồi dùng tay phải kéo khóa chiếc túi ra lục tìm tài sản thì thấy bên trong chiếc túi có 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng của chị Nguyễn Thị N, sinh năm 2000, trú tại xóm T, xã D, huyện D (là con gái bà N) và 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810 của bà N. L đã lấy hai chiếc điện thoại trên bỏ vào túi quần phía bên phải của mình rồi đi bộ ra đường quốc lộ 7B, sau đó xin đi nhờ xe của người khác về nhà.Về đến nhà Lai lấy 02 (hai) chiếc điện thoại vừa trộm được cất dấu ngoài bờ ruộng phía trước cách nhà Lai khoảng 100 mét, chờ thời điểm thích hợp thì đem đi tiêu thụ.

Đến khoảng 18 giờ 00 phút cùng ngày, do nhận thấy hành vi trộm cắp tài sản của mình là vi phạm pháp luật nên Phan Thị L đã đến công an xã Hợp Thành, huyện Yên Thành xin đầu thú và khai nhận hành vi phạm tội của mình đồng thời giao nạp lại 02 (hai) chiếc điện thoại nêu trên .

Tại bản kết luận định giá tài sản số:11/KL-HĐĐGTS ngày 28/4/2021 của Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân huyện Yên Thành kết luận:

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng, bên trong chứa sim số 0377547X, số IMEL: 357228093336523, điện thoại đã qua sử dụng, tại thời điểm định giá có giá trị là 7.900.000 đ (Bảy triệu chín trăm nghìn đồng).

- 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810, bên trong chứa sim số 0336X042, số IMEL: 866893038535099, điện thoại đã qua sử dụng, tại thời điểm định giá có giá trị là 950.000 đ (Chín trăm năm mươi nghìn đồng) .

-Vật chứng và xử lý vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Phan Thị L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng, bên trong chứa sim số 0377547X và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810, bên trong chứa sim số 0336X042 đều đã qua sử dụng để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đã xác định bà Phan Thị N và chị Nguyễn Thị N là chủ sở hữu hợp pháp của hai chiếc điện thoại đã thu giữ, nên cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bà Phan Thị N và chị Nguyễn Thị N trong giai đoạn điều tra là đúng qui định.

-Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại bà Phan Thị N và chị Nguyễn Thị N đã nhận lại tài sản bị trộm cắp nên không có yêu cầu bồi thường thiệt hại về dân sự.

Tại bản cáo trạng số:80/CT-VKS-YT, ngày 08 tháng 6 năm 2021 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An truy tố Phan Thị L về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị xử lý đối với bị cáo như sau:

- Căn cứ khoản 1 Điều 173 điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của BLHS năm 2015, xử phạt bị cáo Phan Thị L từ 09 tháng đến 12 tháng tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách từ 18 tháng đến 24 tháng .

- Hình phạt bổ sung: Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập của bị cáo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nên không không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên miễn xét.

- Vật chứng vụ án: Cơ quan điều tra đã thu giữ của Phan Thị L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810i đều đã qua sử dụng để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đã xác định 2 chiếc điện thoại đó là tài sản hợp pháp của bà Phan Thị N và chị Nguyễn Thị N, nên cơ quan điều tra đã trả lại cho chủ sở hữu trong giai đoạn điều tra là đúng qui định.

- Về án phí: Buộc bị cáo Phan Thị L phải nộp án phí theo quy định tại Điều 135; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Bị cáo không tranh luận đối đáp gì với bản luận tội của đại diện viện kiểm sát, bị cáo đề nghị hội đồng xét xử, xem xét xử cho bị cáo được hưởng mức án nhẹ nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Các quyết định của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành, Điều tra viên;Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, những người bị hại, không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Căn cứ buộc tội: Vào khoảng 09 giờ 15 phút ngày 24/4/2021, tại khu vực chùa Tạnh ở xóm C, xã H, huyện Yên Thành, Phan Thị L đã lén lút mở trộm khóa túi xách của bà Phan Thị Nhan đang để ở khu vực bên cửa nách gần cung Tam Bảo chùa Tạnh trộm 02 chiếc điện thoại, trong đó 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng, của chị Nguyễn Thị Nga ( con giái bà Nhan) bên trong chứa sim số 0377547X, trị giá 7.900.000 đồng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810 của bà Phan Thị N bên trong chứa sim số 0336X042, trị giá 950.000 đồng. Tổng giá trị tài sản mà Phan Thị L trộm cắp được Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự kết luận có giá trị là 8.850.000 đ (Tám triệu tám trăm năm mươi nghìn đồng).

Trên cơ sở lời khai nhận của Phan Thị L, lời khai của người bị hại, vật chứng thu được, kết quả định giá tài sản và các chứng cứ khác đã thu thập được.Cơ quan điều tra đã xác định Phan Thị L phạm tội trộm cắp tài sản. Nên Cơ quan điều tra, điều tra viên đã tiến hành các hoạt động tố tụng theo qui định của pháp luật tố tụng hình sự như ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với Phan Thị L, lấy lời khai, hỏi cung bị can, lấy lời khai của các bị hại, để làm cơ sở để xử lý hình sự đối với Phan Thị L về tội Trộm cắp tài sản. Căn cứ kết quả điều tra và các chứng cứ, tài liệu do cơ quan điều tra thu thập có trong hồ sơ vụ án Viện kiểm sát nhân dân huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An đã truy tố Phan Thị L về tội trộm cắp tài sản theo qui định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người đúng tội, đúng qui định của pháp luật.

[3] Đánh giá tính chất vụ án và hành vi phạm tội của bị cáo: Đây là một vụ án thuộc loại án ít nghiêm trọng. Hành vi dùng lén lút trộm cắp tài sản của chị Nguyễn Thị Nga, bà Phan Thị Nhan do Phan Thị L thực hiện là rất nguy hiểm cho xã hội, thể hiện sự liều lĩnh xem thường pháp luật, gây mất trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sử hữu tài sản của công dân được nhà nước và pháp luật bảo vệ. Bị cáo Phan Thị L có đầy đủ năng lực hành vi, năng lực pháp luật, có trình độ văn hóa chắc chắn bị cáo hiểu rỏ rằng hành vi của mình là vi phạm pháp luật.Tuy biết vậy nhưng vì tham lam, xem thường pháp luật, nên bị cáo đã liều lĩnh thực hiện hành vi trộm cắp tài sản dẫn đến phạm tội. Xét hành vi, tính chất vụ án thấy rằng cần xử lý nghiêm với hình phạt tương xứng để trừng trị giáo dục bị cáo và phòng ngừa tội phạm.

[4]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Có các tình tiết tiết giảm nhẹ là thành khẩn khai báo, tỏ thái độ ăn năn hối cải hành vi phạm tội của mình, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, đã đến công an đầu thú, bố của bị cáo đã có thành tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ được Nhà Nước tặng Huy chương kháng chiến hạng nhất, người bị hại có đơn đề nghị khoan hồng giảm nhẹ đối với bị cáo.

Do bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ qui định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 của BLHS, nhân thân lý lịch bị cáo trong sạch rõ ràng, nên không cần thiết xử phạt tù giam đối với bị cáo, mà xử cho bị cáo được hưởng án treo, giao bị cáo cho chính quyền nơi bị cáo thường trú giám sát giáo dục như viện kiểm sát đề nghị tại phiên tòa cũng đủ nghiêm.

[5] Hình phạt bổ sung: Do điều kiện hoàn cảnh gia đình bị cáo khó khăn, thu nhập của bị cáo chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, nên không không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6]Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại trong vụ án là bà Phan Thị Nhan và chị Nguyễn Thị Nga đã nhận lại tài sản bị mất, bà Nhan, chị Nga không có yêu cầu gì thêm đối với bị cáo nên miễn xét.

[7] Về xử lý vật chứng: Quá trình điều tra ,cơ quan điều tra đã thu giữ của Phan Thị L 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone XS màu vàng đồng, và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Vivo 1810 đều đã qua sử dụng để phục vụ công tác điều tra. Quá trình điều tra, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Yên Thành đã xác định bà Phan Thị Nhan và chị Nguyễn Thị Nga là chủ sở hữu hợp pháp của hai chiếc điện thoại đã thu giữ, nên cơ quan điều tra đã tiến hành trả lại cho bà Phan Thị Nhan và chị Nguyễn Thị Nga trong giai đoạn điều tra là đúng qui định.

[8] Về án phí: Buộc bị cáo Phan Thị L phải chịu án phí theo quy định của Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Điều 23 của Nghị quyết số:

326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1.Căn cứ khoản 1 Điều 173, điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; khoản 1, khoản 2 Điều 65 của BLHS năm 2015.

- Xử phạt: Bị cáo Phan Thị L 01 (Một) năm tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, thử thách 02 (Hai) năm. Thời hạn thử thách đối với bị cáo được tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (Ngày 29/6/2021). Giao bị cáo Phan Thị L cho UBND xã D, huyện D, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

Trường hợp người được hưởng án treo thay đổi nơi cư trú thì việc thi hành hình phạt tù cho hưởng án treo được thực hiện theo quy định của pháp Luật thi hành án hình sự.

Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

2.Về án phí: Căn cứ vào Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí tòa án Buộc: Bị cáo Phan Thị L phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Những người bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo lên toà án cấp phúc thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án do tòa án tống đạt.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

17
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 70/2021/HS-ST

Số hiệu:70/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Thành - Nghệ An
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về