TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ NGHI SƠN, TỈNH THANH HÓA
BẢN ÁN 23/2023/HS-ST NGÀY 08/03/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 3 năm 2023, tại Toà án nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 20/2023/TLST-HS ngày 09 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 25/2023/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 đối với bị cáo:
Vũ Văn K - sinh năm: 2002, tại xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nơi cư trú: Thôn V, xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Vũ Văn L - sinh năm 1976; con ba: Lương Thị Q - sinh năm 1979; chưa co vơ, con;
Tiền án, tiền sự: Không;
Bị cao bị tạm giữ từ ngày 21/11/2022 đến ngày 24/11/2022, sau đó bị khởi tố và áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú cho đến nay (có mặt) - Bị hại: Anh Nguyên Hư u T - sinh năm: 1998; nơi cư trú: Thôn V, xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa (có mặt) - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Nguyên Văn V - sinh năm: 1980; nơi cư trú: Thôn K, xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa (vắng mặt) - Người làm chứng:
+ Anh Lê Trong H - sinh năm: 1996 (vắng mặt) + Bà Lương Thi Q - sinh năm: 1979 (có mặt) + Ông Mach Tho L - sinh năm: 1960 (vắng mặt) + Bà Lê Thi V - sinh năm: 1979 (vắng mặt) Đêu co nơi cư trú: Thôn V, xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 10h00’ ngày 19/11/2022, Vũ Văn K, sinh năm 2002, trú tại thôn V, xã H, thị xã N đi đến nhà anh Nguyễn Hữu T, sinh năm 1998 ở cùng thôn. Khi đến nơi, K nhìn thấy ở ngoài sân có dựng một chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh - đen - bạc, biển kiểm soát 36C1- 455.xy. K đi vào trong nhà, thấy anh T đang ngủ, bà Phạm Thị K (bà nội của T) đang ở dưới bếp nên K nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên. K lục tìm thấy chìa khóa xe, mở khóa điện rồi điều khiển xe mô tô đến nhà anh Lê Trọng H, sinh năm 1996, ở cùng thôn nhờ H đi cùng để chở K về. Sau đó, K và H mỗi người một xe đi đến nhà anh Nguyên Văn V, sinh năm 1980 ở thôn K, xã H, thị xã N. Tại đây K đã cầm cố chiếc xe cho anh V lấy 10.000.000 đồng, rồi nhờ H chở về nhà. Số tiền trên K đã sử dụng tiêu xài cá nhân hết. Đến ngày 20/11/2022, K đã cùng với mẹ là bà Lương Thị Q đến nhà anh T xin lỗi và K thừa nhận đã lấy trộm chiếc xe mô tô của anh T.
Ngày 21/11/2022, Vũ Văn K đến Công an thị xã Nghi Sơn đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp tài sản như đã nêu ở trên.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 162/KL-HĐĐGTS ngày 22/11/2022, Hội đồng định giá tài sản Ủy ban nhân dân thị xã Nghi Sơn kết luận: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha màu xanh - đen - bạc, biển kiểm soát 36C1- 455.xy Vũ Văn K trộm cắp nêu trên, có giá trị là 13.000.000 đồng.
Tại Bản cáo trạng số 32/CT-VKSNS ngày 08 tháng 02 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, tỉnh Thanh Hóa đã truy tố bị cáo Vũ Văn K về tội “Trôm căp tai san” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát vẫn giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 65 BLHS; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Đề nghị xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù cho hưởng án treo; thời gian thử thách từ 24 tháng đến 30 tháng. Không xem xét phần bồi thường. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo và buộc bị cáo phải chịu tiền án phí theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa, bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình , không tranh luận lại quan điểm luận tội của Đại diện Viện kiểm sát và xin được giảm nhẹ hình phạt. Bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Nghi Sơn, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Nghi Sơn, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2] Những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định không có tội:
Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút, ngày 19/11/2022, tại gia đình anh Nguyễn Hữu T ở thôn V, xã H, thị xã N, Vũ Văn K đã trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave alpha màu xanh- đen- bạc, biển kiểm soát 36C1- 455.xy, trị giá 13.000.000 đồng của anh T đem cầm cố lấy tiền tiêu xài cá nhân.
Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ cơ sở kết luận: Hành vi của bị cáo có đủ các dấu hiệu cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS.
Đối với anh Nguyên Văn V là người đã nhân c ầm cố chiếc xe mô tô K trộm cắp, quá trình điều tra xác định khi nhận cầm cố chiếc xe, anh V không biết đây là xe trộm cắp mà co. Vì vậy, hành vi của anh V không vi phạm pháp luật.
Đối với anh Lê Trọng H, là người được K nhờ đi cùng khi cầm cố xe để chở K về, tuy nhiên anh H cũng không biết chiếc xe mô tô biển kiểm soát 36C1- 455.xy là xe do K trộm cắp mà có và cũng không hưởng lợi gì từ việc này, nên hành vi của anh H không vi phạm pháp luật.
[3] Xét tính chất vụ án: Hiện nay trên địa bàn thị xã Nghi Sơn nói chung, tình trạng trộm cắp tài sản đang diễn ra khá phức tạp và có chiều hướng gia tăng. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, làm ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, làm cho nhân dân trên địa bàn hoang mang lo sợ. Vì vậy cần phải tuyên cho bị cáo một hình phạt tương xứng với hành vi của bị cáo đã gây ra mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.
[4] Xét về nhân thân và trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tiền án, tiền sự, đã ra đầu thú, thành khẩn khai báo hành vi phạm tội, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, được bị hại xin giảm nhẹ hình phạt. Do đó, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 BLHS. Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Vì vậy, không cần cách ly bị cáo khỏi xã hội mà cho bị cáo cải tạo tại địa phương theo quy định tại Điều 65 BLHS cũng đủ điều kiện cải tạo bị cáo trở thành người có ích cho xã hội.
[5] Xét về phần hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.
[6] Xét về phần bồi thường dân sự: Bị hại đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo phải trả lại số tiền 10.000.000 đồng. Do đó Hội đồng xét xử miễn xét.
[7] Xét về xử lý vật chứng:
Quá trình điều tra, anh Nguyên Văn V đã giao nộp cho Cơ quan điều tra chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda, loại Wave alpha màu xanh - đen - bạc, biển kiểm soát 36C1- 455.xy để phục vụ công tác điều tra.
Sau khi tiến hành định giá tài sản, xác định thiệt hại và xác định nguồn gốc phương tiện, xét thấy không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng, trả lại chiếc xe trên cho anh Nguyễn Hữu T, là chủ sở hữu tài sản là đúng quy định của pháp luật. Do đó Hội đồng xét xử miễn xét.
[8] Xét về án phí: Bị cáo phải chịu tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 65 BLHS; khoản 2 Điều 136 BLTTHS; Điều 3; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án.
- Tuyên bố: Vũ Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
- Xử phạt: Vũ Văn K 12 tháng tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 24 tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 08/3/2023. Giao Vũ Văn K cho chính quyền Ủy ban nhân dân xã H, thị xã N, tỉnh Thanh Hóa giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách.
Trường hợp bị cáo được hưởng án treo mà thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 3 Điều 92 Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
- Án phí: Vũ Văn K phải chịu 200.000đ tiền án phí HSST.
Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo và bị hại, vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Người có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày niêm yết bản án Trường hợp bản án được thi hành tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Bản án về tội trộm cắp tài sản số 23/2023/HS-ST
Số hiệu: | 23/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Nghi Sơn - Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/03/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về