Bản án về tội trộm cắp tài sản số 111/2022/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VIỆT TRÌ, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 111/2022/HS-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 106/2022/LTST- HS ngày 29 tháng 8 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số:119/2022/QĐXXST-HS ngày 31/8/2022, đối với:

* Bị cáo: Cao Hữu T; Sinh ngay: 05/6/1982;Giới tính: Nam; Nơi ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 14, khu Lê Quý Đôn, phường GC, thành phố VT, tỉnh PT; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; T độ học vấn: 10/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Bố đẻ: Cao Hữu S (đã chết); Mẹ đẻ: Nguyễn Thị H, sinh năm: 1952; Vợ: Đỗ Thị HS (Đã ly hôn); Con: Có 02 con, lớn sinh năm 2007, nhỏ sinh năm 2016; Tiền án; Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 19/5/2005, Tòa án nhân dân thị xã TQ, tỉnh TQ xử phạt 12 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, giá trị tài sản trộm cắp là 2.271.000đ, phải chịu 50.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Đến ngày 02/2006, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí; Ngày 18/5/2012, Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Đến ngày 10/10/2013, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí; Ngày 30/6/2017, Tòa án nhân dân thành phố VT, tỉnh PT xử phạt 08 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, giá trị tài sản trộm cắp là 5.015.000 đồng và phải chịu 200.000 đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm. Đến ngày 09/12/2017, đã chấp hành xong hình phạt tù và án phí; Ngày 09/01/2002, Công an thành phố VT xử phạt hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản, đã chấp hành xong hình phạt ngày 14/01/2002; Ngày 19/11/2004, Công an thành phố VT xử phạt hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong hình phạt ngày 24/12/2004); Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khản cấp, tạm giữ từ ngày 15/6/2022 chuyển tạm giam ngày 21/6/2022. Bị cáo đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh PT; (Có mặt).

* Bị hại: Cháu Vũ Thảo N, sinh năm 2006;

Người đại diện hợp pháp cho bị hại: Bà Đặng Thị Thu H (Là mẹ đẻ cháu N); Đều có địa chỉ: Tổ 39B, phố Thành Công, phường TC, thành phố VT, tỉnh PT; (Cháu N, bà H vắng mặt).

Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu N: Bà phạm Thị T - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh PT; (Có mặt).

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan:

Cháu Lê Minh S, sinh năm 2006;

Ngưi đại diện hợp pháp cho cháu S: Bà Doãn Thị H, sinh năm 1968 (Là mẹ đẻ cháu S); Đều có địa chỉ: Tổ 3, khu Tân Thịnh, phường TD, thành phố VT, tỉnh PT; (Cháu S, bà H vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Cao Hữu T, sinh năm 1982, trú tại tổ 14, khu Lê Quý Đôn, ph GC, thành phố VT, tỉnh PT là đối tượng nghiện chất ma túy, có nhân thân xấu, đã bị xử lý về các tội liên quan đến ma túy và Trộm cắp tài sản. Do không có tiền chi tiêu cá nhân, T đã nảy sinh ý định đi trộm cắp tài sản của người khác để bán lấy tiền. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/6/2022, T mang theo 01 chiếc cờ lê bằng kim loại, màu trắng, hai đầu mở chữ U, chiều dài 117mm, một đầu kích thước miệng 10mm, một đầu kích thước miệng 12mm (loại cờ lê 10), đi từ nhà tại khu Lê Quý Đôn, ph GC ra đường để tìm tài sản sở hở để trộm cắp. Đến khoảng 17 giờ 10 phút cùng ngày, khi T đang ngồi ở vỉa hè vành đai công viên Văn Lang thuộc tổ 5, phố Tân Việt, phường TD, thành phố VT thì thấy cháu Vũ Thảo N – sinh năm 2006, trú tại tổ 39B, khu Thành Công, phường TC, thành phố VT điều khiển xe máy điện nhãn hiệu Vinfast, màu xám đen, BKS 19MĐ1-091.X đi đến (chiếc xe này do cháu N mượn của cháu Lê Minh S – sinh năm 2006, trú tại khu Tân Thịnh, phường TD, thành phố VT). Sau đó, cháu N đỗ chiếc xe máy điện gần vị trí của T rồi xuống ven hồ công viên đi bộ (xe không khóa cổ, khóa càng). Quan sát thấy cháu N không trông coi chiếc xe này, T tiến lại gần, tay phải cầm chiếc cờ lê, đặt đầu mở chữ U kích thước 10mm của chiếc cờ lê vào vị trí ổ khóa điện của chiếc xe, cậy phá để trộm cắp chiếc xe. Cùng lúc này, cháu Đào Hoàng phúc, sinh năm 2004, trú tại tổ 42, khu 9, ph Thanh Miếu, thành phố VT và cháu Hà Tiến Đạt, sinh năm 2003, trú tại khu 8, xã Trưng Vương, thành phố VT đang chơi gần đó, phát hiện thấy T đang cậy phá khóa xe nên phúc và Đạt tiến lại gần hỏi T đang làm gì. Thấy bị phát hiện, T đi bộ xuống gần khu vực hồ Văn Lang vứt bỏ chiếc cờ lê xuống hồ rồi bỏ chạy ra hướng đường Trần phú thì cháu phúc và cháu Đạt hô hoán. Cùng thời gian này, Tổ công tác Công an phường TD, thành phố VT đang thực hiện Nệm vụ tại khu vực hồ Văn Lang đã phối hợp cùng quần chúng nhân dân đuổi theo, bắt giữ T và đưa về Trụ sở Công an phường TD để làm việc. Công an phường TD đã tạm giữ 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Vinfast, màu xám đen, BKS 19MĐ1-091.X; 01 chiếc chìa khóa của chiếc xe nhãn hiệu Vinfast và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, gắn máy, BKS 19MĐ1-091.X, tên chủ xe là Doãn Thị H. Cùng ngày 15/6/2022, Công an phường TD đã bàn giao Cao Hữu T cùng toàn bộ hồ sơ, vật chứng vụ việc cho Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT xử lý theo quy định của pháp luật.

Ngày 15/6/2022, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố VT ra quyết định yêu cầu định giá chiếc xe máy điện Cao Hữu T trộm cắp trong ngày 15/6/2022. Tại kết luận định giá tài sản số 337/KL - HĐĐG ngày 16/6/2022 của Hội đồng định giá tài sản - UBND thành phố VT kết luận:

“1. Giá 01 (một) chiếc xe máy điện nhãn hiệu VINFAST, màu xám đen, sản xuất nam 2021, biển kiểm sát 19MĐ1-091.X (số mày RBNBFBJBD205080477, số khung RPXM3LHLVME016857), xe đã qua sử dụng, có giá là:14.900.000 đồng”.

Đối với chiếc cờ lê, Cao Hữu T đã dùng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản: Cơ quan điều tra tiến hành tìm kiếm, rà soát chiếc cờ lê theo vị trí như trong lời khai của bị can nhưng không thu giữ được chiếc cờ lê này. Cơ quan điều tra đã tiến hành cho T nhận dạng và xác định chiếc cờ lê T đã dùng để cậy phá ổ khóa của chiếc xe máy điện mà T đã trộm cắp.

Quá trình điều tra, ngày 22/6/2022, Cơ quan điều tra đã ra Quyết định trả lại 01 chiếc xe máy điện nhãn hiệu Vinfast, màu xám đen, BKS 19MĐ1-091.X; 01 chiếc chìa khóa của chiếc xe nhãn hiệu Vinfast này và 01 chứng nhận đăng ký xe mô tô, gắn máy, BKS 19MĐ1-091.X, tên chủ xe là Doãn Thị H cho cháu Lê Minh S và chị Doãn Thị H, sinh năm 1968, trú tại tổ 3, khu Tân Thịnh, phường TD, thành phố VT (là mẹ để cháu S). Chị H và cháu S đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu, đề nghị gì.

Tại bản cáo trạng số: 107/CT-VKS-VT ngày 26 tháng 8 năm 2022, Viện kiểm sát nhân dân thành phố VT, truy tố bị cáo Cao Hữu T về tội: “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa:

- Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng truy tố.

- Kiểm sát viên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 15, Điều 38, khoản 1 Điều 48, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự; điểm b, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, 4, 5 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số:326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Cao Hữu T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Hình phạt: Xử phạt bị cáo Cao Hữu T từ 09 tháng tù đến 12 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 15/6/2022.

Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng:

Xác nhận Cơ quan CSĐT Công an thành phố VT trả lại tài sản cho chủ sở hữu có biên bản lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

Về án phí: Buộc bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại T bày: Nhất trí với nội dung luận tội của Kiểm sát viên và bổ sung ý kiến gì.

Trong Quá trình điều tra và tại phiên tòa những người tham gia tố tụng không có ý kiến gì khác về quyết định truy tố của Viện kiểm sát.

Bị cáo nói lời sau cùng: Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dụng vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Công an thành phố VT, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố VT, Kiểm sát viên trong Quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, T tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Xét lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay phù hợp với lời khai của bị cáo; bị hại, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan tại cơ quan điều tra và vật chứng cũng như các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Hội động xét xử có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 17 giờ 10 phút ngày 15/6/2022 tại khu vực vỉa hè vành đai Công viên Văn Lang thuộc tổ 5, phố Tân Việt, phường TD, thành phố VT, tỉnh PT. Cao Hữu T đã thực hiện hành vi dùng cờ lê cậy phá ổ khóa chiếc xe máy điện nhãn hiệu Vinfast màu xám đen BKS: MĐ1- 091X trị giá 14.900.000đồng của cháu Vũ Thảo N để trộm cắp, Tuy nhiên khi T đang cậy phá khóa chiếc xe trên thì bị quần chúng nhân dân phát hiện và bắt giữ. Hành vi phạm tội của bị cáo Cao Hữu T đã phạm tội “Trộm cắp tài sản” thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 Điều 15 của Bộ luật hình sự.

Tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm”.

[3]. Xét hành vi phạm tội của bị cáo thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng.

Hành vi của bị cáo không những đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây mất trật tự trị an trên địa bàn thành phố, ảnh hưởng đến nếp sống văn minh của xã hội. Bản thân bị cáo có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, có đủ điều kiện để nhận thức pháp luật, để nhận biết hành vi của mình là hành vi vi phạm pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh trước pháp luật.

Tuy nhiên, trước khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử xem xét đến nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo thấy rằng:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là phạm tội đối với người dưới 16 tuổi được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; Bị cáo có bố mẹ đẻ là được tặng thưởng huy chương kháng chiến nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Xét thấy, bị cáo đã 03 lần bị Tòa án xét xử, trong đó có 02 lần bị Tòa án xử phạt về tội Trộm cắp tài sản, 01 lần về tội mua bán trái phép chất ma túy và 02 lần bị Cơ quan Công an thành phố VT xử phạt hành chính mặc dù đã được xóa án tích. Nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học rèn luyện bản thân mà còn tiếp tục phạm tội, thể hiện bị cáo là người sống không tuân thủ pháp luật. Do vậy, cần phải xử phạt bị cáo với mức án thật nghiêm khắc, tương xứng với hành vi phạm tội để giáo dục, cải tạo bị cáo trở thành người công dân có ích cho xã hội.

[4]. Về hình phạt bổ sung: Xét thấy bị cáo không có tài sản riêng có giá trị ngoài những đồ dùng sinh hoạt cá nhân thiết yếu nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo là phù hợp.

[5]. Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng: Chủ sở hữu tài sản đã nhận lại tài sản và không có yêu cầu bồi thường, đề nghị gì. Nên không đặt ra giải quyết và cần xác nhận biên bản trao trả tài sản do Cơ quan CSĐT lập, lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8]. Xét đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là phù hợp, cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

[1]. Căn cứ vào: khoản 1 Điều 173, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, điểm i khoản 1 Điều 52, Điều 15, Điều 38, khoản 1 Điều 48, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự; điểm b, khoản 3 Điều 106, khoản 2 Điều 136, khoản 1, 4, 5 Điều 331, khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016, của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[2]. Tuyên bố: Bị cáo Cao Hữu T phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

[3]. Xử phạt: Bị cáo Cao Hữu T 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ là ngày 15/6/2022.

* Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[4].Về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng:

Xác nhận Cơ quan CSĐT Công an thành phố VT trả lại tài sản cho chủ sở hữu có biên bản lưu trong hồ sơ là hợp pháp.

[5]. Về án phí: Buộc bị cáo Cao Hữu T phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng), tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị hại được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

72
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội trộm cắp tài sản số 111/2022/HS-ST

Số hiệu:111/2022/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Việt Trì - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về