TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔ LƯƠNG, TỈNH NGHỆ AN
BẢN ÁN 46/2023/HS-ST NGÀY 23/05/2023 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 23 tháng 5 năm 2023 tại Trụ sở Toà án nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 41/2023/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2023/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 5 năm 2023 đối với bị cáo:
Nguyễn Thị Th, sinh ngày 04 tháng 4 năm 1985. Nơi cư trú: xóm X, xã X, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nữ; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thúc H, sinh năm 1955 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1960; Chồng: Đinh Bạt D, sinh năm 1981; Con: Có 03 con, lớn nhất sinh năm 2012, nhỏ nhất sinh năm 2017; tiền án, tiền sự: Không. Bị cáo bị áp tạm giữ 06 ngày, từ ngày 17/3/2023 đến ngày 23/3/2023 Áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú”. Hiện tại ngoại, có mặt tại phiên tòa.
*Người bị hại: Anh Nguyễn Tất Tr, sinh năm 1982; Trú tại: Xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Có mặt).
*Người làm chứng:
1. Anh Nguyễn Tất L, sinh năm 1983; Trú tại: Xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)
2. Chị Lê Thị N, sinh năm 1987; Trú tại: Xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Có mặt)
3. Chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1985; Trú tại: Xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)
4. Anh Nguyễn Doãn T, sinh năm 1954; Trú tại: Xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)
5. Anh Nguyễn Võ Th, sinh năm 1973; Trú tại: Xã Thanh L, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. (Vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 14/3/2023, anh Nguyễn Võ Th, sinh năm 1973, trú tại xóm 1, xã Thanh L, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 37A-X chở Nguyễn Thị Th, sinh năm 1985, trú tại xóm X, xã X, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An đi đến địa bàn huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An để tiếp thị sơn, gạch (anh Th, chị Th làm nghề tiếp thị sơn gạch). Khi đi qua địa bàn xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An nhìn thấy nhà anh Nguyễn Tất L đang xây dựng nên Th nói anh Th dừng xe lại để Th vào tiếp thị (ngôi nhà đang xây này của anh L nằm chung trên một mảnh đất với ngôi nhà cũ của anh L và nhà anh Nguyễn Tất Tr, sinh năm 1982 – anh L và anh Tr là anh em ruột. Giữa các ngôi nhà này không có tường rào ngăn cách). Th xuống xe, còn anh Th ở trong xe chờ. Nguyễn Thị Th đứng gọi phía ngoài cổng nhà anh L nhưng không ai trả lời. Lúc này, Th có gặp chị Lê Thị N, sinh năm 1987, trú xóm V, xã M, huyện Đô Lương thì được chị N chỉ đường vào nhà bằng cách đi vòng ra phía sau. (Vì mảnh đất nhà anh L, anh Tr phía trước và phía sau đều giáp mặt đường, có cổng trước và cổng sau). Trước khi vào nhà anh L thì Th đi vào cửa hàng photocopy của chị Nguyễn Thị L, sinh năm 1985, trú xóm V, xã M, huyện Đô Lương hỏi xin số điện thoại nhà anh L thì được chị L cho số điện thoại của vợ anh L. Th tiếp tục đi sang nhà anh Nguyễn Doãn T, sinh năm 1981, trú xóm V, xã M, huyện Đô Lương hỏi xin số điện thoại của anh L. Sau đó, khoảng 15 giờ 21 phút cùng ngày 14/03/2023, Th đi vào khu vực đất nhà anh L, anh Tr bằng lối đi phía sau, đi qua cửa sau nhà đang xây rồi đi ra sân nhà gọi xem có ai ở nhà không nhưng không thấy ai trả lời. Lúc này, thấy cửa nhà của anh Nguyễn Tất Tr mở (nhà anh Tr nằm sát nhà anh L) nên Th đi vào trong phòng khách nhà anh Tr, Th ngồi trên ghế khoảng 4 đến 5 phút thì thấy trên mặt ghế gỗ của bộ bàn ghế gỗ trong phòng khách có 01 chiếc máy tính bảng có ốp da màu xanh sẫm (máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Gen 7 Model A2198 4G+WIFI 32GB màu đen số sêri DMPZ6BOJMDFT, IMEI 32520810554195b9); ốp sử dụng cho máy tính bảng Apple Ipad nhãn hiệu Mutural màu xanh sẫm, viền nhựa, kích thước (25,5x17x0,75). Do không có ai ở nhà nên Th nảy sinh ý định lấy chiếc máy tính bảng này về sử dụng, Th liền cầm chiếc máy tính bảng nói trên đi ra khỏi khu vực nhà anh Tr, nhà anh L rồi đi ra nơi anh Th đang chờ, lúc đi ra Th kẹp chiếc máy tính bảng ở nách trái. Sau đó, Th lên xe ngồi ở hàng ghế sau, bỏ máy tính bảng vào giữa tập tài liệu rồi anh Th chở Th đi về nhà.
Ngày 17/3/2023, nhận thức được hành vi sai phạm của mình nên Th mang chiếc máy tính bảng đến Công an xã M để đầu thú và giao nộp chiếc máy tính bảng cùng chiếc ốp. Công an xã M đã tiến hành ghi lời khai, tạm giữ đồ vật tài liệu và chuyển hồ sơ vụ việc đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô Lương để giải quyết theo thẩm quyền. Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Thị Th đã khai nhận hành vi phạm tội của mình phù hợp với những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình điều tra.
Tại bản kết luận định giá tài sản số 15/KL-ĐGTS ngày 20 tháng 03 năm 2023 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự thuộc Ủy ban nhân dân huyện Đô Lương kết luận:
Tại thời điểm tháng 3 năm 2023, giá trị của:
- 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Gen 7 Model A2198 4G+WIFI 32GB màu đen số sêri DMPZ6BOJMDFT, IMEI 325208105541959, đã qua sử dụng từ lúc mua mới năm 2019, vỏ có xước nhẹ có giá trị là 5.500.000đ (năm triệu năm trăm nghìn đồng).
- 01 (một) ốp sử dụng cho máy tính bảng Apple Ipad nhãn hiệu Mutural màu xanh sẫm, viền nhựa, kích thước (25,5x17x0,75), đã cũ, mua mới và sử dụng từ năm 2021 có giá trị là 50.000đ (năm mươi nghìn đồng).
Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 5.550.000đ (năm triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng).
* Về vật chứng vụ án: Trong quá trình điều tra, cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô Lương thu giữ: 01 (một) máy tính bảng nhãn hiệu Apple Ipad Gen 7 Model A2198 4G+WIFI 32GB màu đen số sêri DMPZ6BOJMDFT, IMEI 325208105541959, đã qua sử dụng; 01 (một) ốp sử dụng cho máy tính bảng Apple Ipad nhãn hiệu Mutural màu xanh sẫm, viền nhựa, kích thước (25,5x17x0,75), đã cũ. Qua điều tra xác định chủ sở hữu của chiếc máy tính bảng và ốp máy tính bảng nêu trên là anh Nguyễn Tất Tr nên cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đô Lương đã tiến hành trả lại cho chủ sở hữu theo đúng quy định của pháp luật.
Đối với 01 USB nhãn hiệu TOSHIBA 4GB chứa 05 video ghi lại diễn biến hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/3/2023 của Nguyễn Thị Th do anh Nguyễn Tất Tr cung cấp được bảo quản cùng hồ sơ vụ án.
* Về trách nhiệm dân sự: Anh Nguyễn Tất Tr đã nhận lại tài sản bị mất, không yêu cầu gì thêm.
Bản cáo trạng số 50/CT-VKS-ĐL ngày 11/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An truy tố Nguyễn Thị Th về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nên giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:
Về tội danh, điều luật áp dụng, mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Th phạm tội "Trộm cắp tài sản". Áp dụng khoản 1 điều 173, điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 65 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Th từ 06 đến 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách từ 12 đến 18 tháng; Miễn hình phạt phụ là phạt tiền cho bị cáo.
Về án phí: Bị cáo Nguyễn Thị Th phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.
- Bị cáo nhất trí về tội danh, khung hình phạt và không tranh luận gì thêm và xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.
- Người bị hại có mặt không có ý kiến gì tranh luận và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện Đô Lương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Bị cáo, người bị hại không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng đều hợp pháp.
[2] Về sự vắng mặt của người làm chứng: Tại phiên tòa một số người làm chứng vắng mặt nhưng xét thấy họ đã có lời khai đầy đủ và không ảnh hưởng tới quá trình xét xử vụ án. Căn cứ vào các Điều 293, 299 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử thống nhất vẫn tiến hành xét xử vụ án.
[3] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa bị cáo Nguyễn Thị Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.
Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên tòa kết luận: Có đủ cơ sở kết luận Nguyễn Thị Th phạm tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự.
Hội đồng xét xử nhận thấy: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hôm nay là hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp lời khai của người bị hại, lời khai của người làm chứng và các tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án đủ căn cứ xác định: vào ngày hồi 15 giờ 21 phút ngày 14/3/2023, tại nhà ở của anh Nguyễn Tất Tr thuộc xóm V, xã M, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Nguyễn Thị Th đã có hành vi trộm cắp tài sản một chiếc máy tính bảng có nhãn hiệu Apple Ipad Gen 7 cùng chiếc ốp trị giá 5.550.000 đồng (năm triệu năm trăm năm mươi nghìn đồng) của anh Nguyễn Tất Tr. Do đó, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương truy tố bị cáo Nguyễn Thị Th về tội "Trộm cắp tài sản" theo khoản 1 điều 173 Bộ luật hình sự là hoàn toàn có cơ sở.
[4] Về tính chất, mức độ hành vi phạm tội, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo là liều lĩnh, xem thường pháp luật, xâm phạm trực tiếp đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây tâm lý bất an trong xã hội. Cần thiết phải lên cho bị cáo một mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo để cải tạo bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.
Bị cáo Nguyễn Thị Th không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự mà có những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như sau: Bị cáo phạm tội lần này là lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, Bị cáo sau khi phạm tội đã ra đầu thú, nộp lại tài sản chiếm đoạt khắc phục hậu quả, bị cáo có bố đẻ là thương binh hạng 1/4, có công với cách mạng được thưởng nhiều Huân huy chương. Đây là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự cần áp dụng cho bị cáo. Do bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự và có nơi cư trú ổn định, nên cần áp dụng Điều 65 BLHS. Cho bị cáo được cải tạo tại địa phương cũng đủ tác dụng giáo dục bị cáo.
[5] Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù bị cáo còn có thể bị phạt tiền hoặc tịch thu tài sản, nhưng qua xác minh của cơ quan điều tra thì bị cáo đang sống chung cùng chồng và các con, tài sản riêng không có gì đáng giá vì vậy không áp dụng hình phạt tiền hoặc tịch thu tài sản đối với bị cáo.
[6] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản đầy đủ và không có yêu cầu gì thêm nên Hội đồng xét xử không xét.
[7] Về án phí: Căn cứ điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm a khoản 1 điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội; Buộc bị cáo Nguyễn Thị Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm..
[8] Các đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đô Lương tại phiên tòa về việc giải quyết toàn bộ vụ án là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ: khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1,2 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự. Xử phạt: Nguyễn Thị Th 06 (Sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Giao bị cáo Nguyễn Thị Th cho UBND xã X, huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục bị cáo. Trong trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 2 điều 92 của Luật thi hành án hình sự.
Trong thời gian thử thách, người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ 02 lần trở lên thì Tòa án có thể quyết định buộc người được hưởng án treo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.
2. Về vật chứng và xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.
Tiếp tục lưu kèm theo hồ sơ vụ án 01 (một) USB chứa 05 video ghi lại diễn biến hành vi trộm cắp tài sản ngày 14/3/2023 của Nguyễn Thị Th do anh Nguyễn Tất Tr cung cấp.
3. Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Quốc Hội:. Buộc bị cáo Nguyễn Thị Th phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.
Về quyền kháng cáo: Căn cứ Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự: Bị cáo Nguyễn Thị Th, Người bị hại Nguyễn Tất Tr có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án về tội trộm cắp tài sản (máy tính bảng) số 46/2023/HS-ST
Số hiệu: | 46/2023/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Đô Lương - Nghệ An |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 23/05/2023 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về