Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN VĐ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 02/2023/HS-ST NGÀY 03/01/2023 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 03 tháng 01 năm 2023, tại Tòa án nhân dân huyện VĐ, tỉnh Q xét xử sơ thẩm, công khai vụ án hình sự thụ lý số: 41/2022/TLST-HS ngày 14 tháng 12 năm 2022, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 37/2022 /QĐXXST-HS ngày 19 tháng 12 năm 2022 đối với bị cáo:

Hoàng Trung Đ, sinh ngày 02/11/1991, tại huyện VĐ, tỉnh Q; nơi cư trú: thôn N S, xã B S, huyện VĐ, tỉnh Q; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá (học vấn): lớp 12/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng Văn Y và bà Phạm Thị L; vợ, con: chưa có; tiền sự: không; tiền án: Ngày 23/11/2016, bị Tòa án nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, xử phạt 09 năm tù về tội “ Giết người”, chấp hành xong bản án ngày 23/9/2021.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 05/7/2022, bị tạm giam từ ngày 08/7/2022, hiện đang bị tạm giam tại trại tạm giam công an tỉnh Q; có mặt tại phiên tòa.

*Những người làm chứng:

Trần Văn T và Từ Văn M đều có mặt tại phiên tòa.

Phạm Thu Ch, Lò Thị Th, Phạm Văn H, Nguyễn Công Q đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 21 giờ ngày 17/12/2021, Trần Văn T gọi điện cho Từ Văn M nhờ mua hộ 01 chỉ ma tuý Ketamine và 02 viên thuốc lắc. Lúc T gọi, thì M cùng với Hoàng Trung Đ, Phạm Văn H, Nguyễn Công Q đều là bạn học của M đang cùng ngồi ăn uống ở khu đô thị Th Nh, thị trấn C R. Do Đ nghe được cuộc nói chuyện giữa M và T nên Đ ngỏ ý muốn giúp M mua ma túy, nên M đồng ý với T. Sau đó, Đức gọi điện thoại cho người có tên “Tuấn Chuột” (không rõ lai lịch địa chỉ) hỏi mua ma túy và báo lại cho M biết 01 chỉ ma túy Ketamine và 02 viên thuốc lắc giá 3.500.000 đồng, M gọi điện lại cho T báo giá là 3.500.000 đồng, T đồng ý mua rồi bảo M bỏ tiền để mua ma túy và hẹn M vào trong đường đấu nối khu phức hợp nghỉ dưỡng thuộc thôn X H, xã Đ X, huyện VĐ để giao ma túy thì sẽ trả tiền cho M.

Sau khi M, Đ, Q, H ăn uống xong thì tất cả lên xe ô tô Mazda màu trắng BKS 14A-287.xx của M, do Q và H say nên nằm ngủ ở ghế sau. Quá trình ngồi trên xe, M đưa cho Đ 3.500.000 đồng để mua ma túy, Đ nhận tiền và xuống xe đi gặp một thanh niên (không rõ lai lịch), khi Đ quay lại bảo M đã mua được ma túy. Sau đó, M điều khiển xe ô tô chở Đ, Q, H vào chỗ hẹn với T trước đó. Khi vào đến chỗ hẹn, M và Đ sang xe của T, còn H và Q ở lại trong xe của M. Tại xe ô tô của T, Đ đưa cho T 01 túi nilon chứa ma túy Ketamine và 02 viên thuốc lắc, T đưa lại cho M3.500.000 đồng tiền mua ma túy rồi T mời Đ và Msử dụng số ma túy còn lại trong đĩa sứ màu trắng. Tiếp đó, T lấy 01 viên ma túy thuốc lắc bẻ đôi đưa cho Th sử dụng nửa viên, T sử dụng nửa viên, còn lại 01 viên T đưa cho M sử dụng hết. Sau khi sử dụng xong, T tiếp tục đưa 01 túi nilon chứa ma túy Ketamine ra phía sau thì Đ cầm gói ma túy đổ ra đĩa sứ chế biến xong rồi mời T, M, Ch sử dụng, sau đó Đ tiếp tục bê đĩa ma túy sang xe ô tô Mazda màu trắng BKS 14A-287.xx của M mời H và Qmỗi người sử dụng một lượt.

Đến khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/12/2021, tổ công tác Công an huyện VĐ tuần tra kiểm soát tại tuyến đường đấu nối khu phức hợp nghỉ dưỡng thuộc thôn X H, xã Đ X, huyện VĐ, phát hiện 01 xe ô tô nhãn hiệu Ford Ranger màu cam BKS 14C-191.xx và 01 xe mô tô hiệu Mazda màu trắng BKS 14A-287.xx dừng đỗ sai quy định. Kiểm tra xe Ford Ranger BKS 14C-191.xx phát hiện có 04 người gồm: Trần Văn T ngồi ghế lái, Lò Thị Th ngồi ghế trên cạnh T, Từ Văn M, Phạm Thu Ch ngồi ghế sau đang nghe nhạc công suất lớn, có dấu hiệu sử dụng trái phép chất ma tuý. Thu giữ trong xe 01 đĩa sứ màu trắng, hình tròn, trên đĩa có dính chất tinh thể màu trắng; 01 thẻ căn cước công dân mang tên Trần Văn T có bám dính chất tinh thể màu trắng, 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất thể màu trắng; 01 bật lửa màu đỏ, 02 vỏ đầu lọc thuốc lá, 06 tờ tiền mệnh giá 20.000đồng. Kiểm tra xe ô tô Mazda BKS 14A-287.xx có Phạm Văn H, còn Nguyễn Công Q và Hoàng Trung Đ bỏ chạy. Tổ tuần tra Công an huyện VĐ đã lập biển bản, thu giữ, niêm phong toàn bộ vật chứng và đưa 02 xe ô tô cùng 05 người về trụ sở để làm việc, thu giữ 06 điện thoại di động các loại và 3.500.000đồng của M. Ngày 18/12/2021, Q đến Công an huyện VĐ làm việc và khai nhận đã sử dụng ma túy. Hoàng Trung Đ sau khi phạm tội đã bỏ trốn khỏi địa phương, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện VĐ, khởi tố bị can đối với Đ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”. Đến ngày 05/7/2022, Đ bị bắt theo Lệnh truy nã và thu giữ của Đ 01 chứng minh nhân dân số 100999xxx mang tên Hoàng Trung Đ.

- Tại Kết luận giám định số (249-254)/HP ngày 19/12/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Q xác định: Trần Văn T, Từ Văn M, Lò Thị Th dương tính với ma tuý MDMA (thuốc lắc); MET (ma túy đá); KET (Ketamin). Phạm Thu Ch dương tính với ma túy MDMA (thuốc lắc); MET (ma túy đá). Phạm Thành H dương tính với ma túy MET (ma túy đá). Nguyễn Công Q âm tính với ma túy.

- Tại Bản kết luận giám định số 55/KLGĐ ngày 25/12/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự -Công an tỉnh Q, xác định: Chất bột màu trắng có trong 01 túi nilon là ma túy loại Ketamine, có khối lượng là 0,574gam. Chất bột màu trắng bám dính trên bề mặt đĩa sứ màu trắng, trên căn cước công dân gửi giám định là ma túy loại Ketamine, không xác định được khối lượng.

- Tại bản kết luận giám định số 65/KLGĐ ngày 27/12/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Q, xác định: Tìm thấy chất ma túy trên 03 tờ tiền 20.000đồng có mã số hiệu GV20768517, ZF20696949, LQ 20660099 và 02 vỏ đầu lọc thuốc lá; không tìm thấy chất ma túy trên 03 tờ tiền còn lại.

Quá trình điều tra, và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Trung Đ khai cơ bản phù hợp với nội dung vụ án, bị cáo Đ khai: Tối ngày 17/12/2021 bị cáo cùng với M, H và Q là bạn học của Đ ngồi ăn uống tại quán ở khu đô thị Th Nh thuộc thị trấn C R, huyện VĐ. Trong lúc đang ăn uống thì M có nhờ bị cáo mua ma túy Ketamine và ma túy thuốc lắc. Bị cáo đồng ý và gọi điện cho anh “Tuấn Trần” không biết rõ họ tên địa chỉ, nhờ “Tuấn Trần” mua hộ ma túy và hẹn gặp tại khu đô thị Th Nh, huyện VĐ. Sau đó có một người nam thanh niên gọi điện cho bị cáo để giao ma túy, bị cáo đến gặp người đó giao tiền và nhận ma túy. Sau khi nhận được ma túy bị cáo cầm lên xe đưa cho M, sau đó M lái xe vào khu vực đầu đường đi vào khu phức hợp. Tại đây bị cáo và M đi sang xe của anh T, trên xe khi đó có ba người, hai nữ một nam. Ngồi ghế sau có một người nữ, bị cáo và M ngồi vào ghế sau, bị cáo ngồi phía ngoài bên phải xe còn M ngồi ngay sau ghế lái. Trên xe, M đưa đĩa ma túy có sẵn cho bị cáo bảo bị cáo sử dụng. Bị cáo sử dụng một đường ma túy và sau đó có cầm đĩa ma túy đó sang xe của M đưa cho H và Q sử dụng. Bị cáo không được nhận gói ma túy từ T để chế biến ra thành bột.

Từ văn M khai: Do Đ nghe được cuộc nói chuyện giữa M và T về việc T nhờ M mua hộ ma túy, nên Đ nói với M là để Đ lấy ma túy cho, thấy thế M đồng ý. M đưa cho Đức 3.500.000 đồng để trả tiền mua ma túy. Sau khi lấy được ma túy Đ cầm lên xe M ngồi, rồi M lái xe đưa cả Đ, Q, H vào chỗ T đợi. Khi vào tới chỗ T, thì M và Đ đi sang xe của T, Đ cầm túi ma túy vừa mua được đưa trực tiếp cho T và T đưa cho M 3.500.000 đồng, mà trước đó M đã bỏ ra để mua ma túy cho T. Khi ngồi trên xe của T, Đ có đưa đĩa chứa ma túy mời M sử dụng, M có sử dụng một đến hai “đường” ma túy Ketamine.

Trần Văn T khai: T chỉ gọi điện cho M nhờ M mua ma túy cho T, không nhờ Đ mua ma túy hộ. Tại đầu đường khu phức hợp huyện VĐ, M và một người nam thanh niên đi sang xe của T và ngồi ở ghế sau xe, T không biết M hay là người đi cùng M đưa túi ma túy cho T vì khi nhận ma túy T không quay mặt lại. Khi T quay xuống phía sau thì thấy Đ đang dùng thẻ căn cước của T để “ xào” Ketamine trên đĩa sứ. Chế biến xong người thanh niên đó đưa đĩa sứ có ma túy về phía T, mời T sử dụng, T cầm ống hút và sử dụng một liều Ketamine.

Phạm Thu Ch khai: Anh M và một người lạ mặt sang xe anh T, người này đưa cho anh T 02 viên thuốc lắc và 01 túi ma túy Ketamine. Lúc sau anh T đưa túi ma túy Ketamine cho nam thanh niên, nam thanh niên cầm túi ma túy đổ ra đĩa và dùng thẻ căn cước để chế biến, chế biến xong thì mời Ch và M sử dụng. Ch sử dụng hai “đường” ma túy Ketamin bằng hình thức hít vào mũi bằng ống hút được cuộn bằng tờ tiền mệnh giá 20.000 đồng.

Phạm Văn H khai: Đ bê một đĩa sứ màu trắng có chứa ma túy Ketamine và một ống hút cuộn từ tiền Polime mời H sử dụng hai lần, lần đầu Đ mời nhưng H không sử dụng, lần hai Đ mời, H sử dụng một “đường” ma túy Ketamine.

Nguyễn Công Q khai: Một lúc sau Đ bê một đĩa ma túy Ketamine đến mời Q sử dụng, Đ bê đĩa, Q cầm ống hút trên đĩa hít một “đường” ma túy Ketamine do Đ mời.

Tại bản cáo trạng số: 31/CT-VKSVĐ ngày 13/10/2022 của Viện kiểm sát nhân dân huyện VĐ, tỉnh Q đã truy tố bị cáo Hoàng Trung Đ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Ý kiến của Kiểm sát viên tại phiên tòa: Căn cứ vào lời khai của bị cáo, những người làm chứng tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập trong quá trình điều tra đủ cơ sở kết luận bị cáo Hoàng Trung Đ đã có hành vi: vào khoảng 23 giờ 30 phút ngày 17/12/2021, Đ cùng với Trần Văn T đã tổ chức cho Từ Văn M, Phạm Thu Ch, Phạm Công H và Nguyễn Công Q sử dụng trái phép chất ma túy loại Ketamine, như bản cáo trạng đã nêu.

Đề nghị Hội đồng xét xử: áp dụng các điểm b, h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Hoàng Trung Đ với mức hình phạt từ 07 năm 06 tháng đến 08 năm tù về tội “ Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt giữ.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hoàng Trung Đ vì bị cáo thu nhập không ổn định.

Về vật chứng: Trả lại bị cáo Đ 01 giấy chứng minh nhân dân số 100996xxx mang tên Hoàng Trung Đ, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo, không liên quan đến vụ án theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

- Ý kiến của bị cáo Hoàng Trung Đ: Bị cáo đã phạm tội Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, Viện kiểm sát truy tố bị cáo là không oan, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện VĐ, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện VĐ, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử sơ thẩm, các bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cũng như không có ý kiến khiếu nại gì về việc giám định. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và cơ quan giám định, người giám định đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi bị truy tố của bị cáo: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Hoàng Trung Đ chỉ khai nhận đã cầm đĩa sứ có chất ma túy Ketamine mời Hưng và Quyết sử dụng, tuy nhiên căn cứ vào lời khai của Ch, M, T, Hưng và Q có đủ cơ sở xác định: Ngoài hành vi đưa chất ma túy cho Q và H sử dụng như bị cáo thừa nhận, bị cáo Đ còn có hành vi chế biến chất ma túy Ketamine từ dạng hạt tinh thể sang dạng bột và còn đưa chất ma túy này cho M và Ch sử dụng. Hành vi phạm tội của bị cáo còn được chứng minh bằng kết quả giám định tại các bản Kết luận giám định số (249-254)/HP ngày 19/12/2021, bản Kết luận giám định số 55/KLGĐ ngày 25/12/2021, bản Kết luận giám định số 65/KLGĐ ngày 27/12/2021 của phòng Kỹ thuật hình sự công an tỉnh Q; phù hợp với vật chứng được thu giữ trong vụ án, biên bản kiểm tra và các tài liệu chứng cứ khác đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án.

Hành vi chế biến chất ma túy, đưa chất ma túy cho M, Ch, Hvà Q sử dụng của bị cáo Hoàng Trung Đ đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” được quy định tại Điều 255 của Bộ luật hình sự.

Ngoài hành vi Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy bị xét xử, bị cáo còn có hành vi giúp Từ Văn M mua bán trái phép chất ma túy. Tòa án đã trả hồ sơ yêu cầu khởi tố, nhưng Viện kiểm sát nhân dân huyện VĐ không truy tố vì cho rằng hành vi mua ma túy của Hoàng Trung Đ đã thu hút về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, nên không giải quyết trong vụ án này.

Bị cáo Hoàng Trung Đ đã bị kết án về tội Giết người là tội phạm rất nguy hiểm, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục có hành vi phạm tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy cho bốn người khác là tội phạm rất nghiêm trọng, nên bị cáo Đ phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm.

Điều 255 của Bộ luật hình sự quy định:

“1. Người nào tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy dưới bất kỳ hình thức nào, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm: a)…………………………… b) Đối với 02 người trở lên; h) Tái phạm nguy hiểm.” Viện kiểm sát nhân dân huyện VĐtruy tố bị cáo Hoàng Trung Đ về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo các điểm b, h khoản 2 Điều 255 của Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Về tính chất, mức độ phạm tội của bị cáo:

Trong vụ án này tuy bị cáo Đ không phải là người khởi xướng, chủ mưu tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy, nhưng bị cáo là người thực hành tích cực thể hiện qua các hành vi như chế biến chất ma túy Ketamine từ dạng hạt tinh thể sang dạng bột, cầm ma túy đưa cho những người khác và mời họ sử dụng. Bị cáo nhận thức rõ hành vi mà bị cáo thực hiện là vi phạm pháp luật, nhưng vì coi thường pháp luật, coi thường sức khỏe của bản thân, của người khác, đã xâm phạm đến chế độ quản lý của Nhà nước về việc sử dụng chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội ở địa phương.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự, Tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

[5] Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Đ vì bị cáo là người lao động tự do, thu nhập không ổn định.

[6] Đối với các đối tượng Trần Văn T, Từ Văn M đã bị Tòa án nhân dân huyện VĐ, xét xử và kết án tại bản án hình sự sơ thẩm số: 17/2022/HS-ST ngày 23/6/2022, hiện đang chấp hành hình phạt tù.

[7] Về xử lý vật chứng: 01 giấy chứng minh nhân dân số 100996xxx mang tên Hoàng Trung Đ, đây là giấy tờ tùy thân của bị cáo, không phải là vật chứng của vụ án nên trả lại cho bị cáo Đ; các vật chứng khác, đã được xử lý tại bản án hình sự sơ thẩm số 17/2022/HS-ST ngày 23/6/2022 của Tòa án nhân dân huyện VĐ.

[8] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

 1. Tuyên bố: Bị cáo Hoàng Trung Đ phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” .

2. Áp dụng các điểm b, h khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự: Xử phạt: bị cáo Hoàng Trung Đ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ 05/7/2022.

3. Trả lại bị cáo Hoàng Trung Đ 01 giấy chứng minh nhân dân số 100996441 mang tên Hoàng Trung Đ.

4. Áp dụng khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 qui định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Hoàng Trung Đ phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Căn cứ khoản 1 Điều 331; khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự, bị cáo Hoàng Trung Đ có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (03/01/2022).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

60
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2023/HS-ST

Số hiệu:02/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vân Đồn - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/01/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về