Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MANG YANG, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 02/2024/HS-ST NGÀY 19/01/2024 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 19 tháng 01 năm 2024, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 40/2023/HS-ST, ngày 22/11/2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 44/2023/QĐXXST-HS, ngày 08/12/2023 và Quyết định hoãn phiên toà số 18/2023/HSST-QĐ ngày 22 tháng 12 năm 2023 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Trọng C, sinh ngày 28/9/1995 tại tỉnh Gia Lai;

Nơi cư trú: Tổ dân phố 5, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 1970 và bà Phan Thị L, sinh năm 1975; bị cáo có vợ là Đặng Thị Mỹ H, sinh năm 1997 (đã ly hôn năm 2019), có 01 con sinh năm 2016.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Nhân thân: Năm 2019 bị Công an huyện M đưa đi cai nghiện bắt buộc tại Cơ sở cai nghiện tỉnh Gia Lai. Năm 2021 chấp hành xong biện pháp cai nghiện về sinh sống tại Tổ dân phố 5, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

2. Ninh Đan H, sinh ngày 02/9/1999 tại tỉnh Nghệ An;

Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai;

Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính:

Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Ninh Nhật Q, sinh năm: 1977 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1976; bị cáo chưa có vợ, con.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

3. Lý Văn H1, sinh ngày 03/7/1992 tại tỉnh Sơn La; Nơi thường trú: Bản P, xã Ch, huyện V, tỉnh Sơn La.

Nơi ở hiện tại: Làng Đ, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 0/12; dân tộc: Dao; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Bàn Văn S (đã chết) và bà Lý Thị T, sinh năm 1972; bị cáo có vợ là D, sinh năm 1996, có 02 con, con lớn sinh năm 2016, con nhỏ sinh năm 2018.

Tiền án; Tiền sự: Không;

Nhân thân:

Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình xử phạt 12 tháng tù về tội Cố ý hủy hoại tài sản, đã được xóa án tích.

Năm 2019 đến năm 2021 cai nghiện tại Trung tâm tư vấn cai nghiện tỉnh Gia Lai.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

4. Nguyễn Ngọc Th, sinh ngày 11/8/1994 tại tỉnh Gia Lai Nơi cư trú: Tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai; Nghề nghiệp: Làm nông; Trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn Th, sinh năm 1972 và bà Đào Thị V, sinh năm 1974; bị cáo có vợ là H1 Huyền Tr, sinh năm 2003, có 02 con, con lớn sinh năm 2018 (con riêng), con nhỏ sinh năm 2022.

Tiền sự: Không;

Tiền án: 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” theo Bản án số 21/2019/HS- ST, ngày 06/12/2019 của Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai.

Nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai xử phạt 20 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, đã chấp hành xong bản án.

Bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 14/6/2023 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho bị cáo Lý Văn H1: Ông Trần Mạnh T, Trợ giúp viên pháp lý thuộc Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Gia Lai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1. Nguyễn Thị H, sinh năm 1976, trú tại: Tổ dân phố 6, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Có mặt 2

2. H1 Huyền Tr, sinh năm 2003, trú tại: Làng Đê Tar, xã K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

3. Ngô Thị Song O, sinh năm 1987, trú tại: Tổ dân phố 4, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

4. Nguyễn Trọng Kh, sinh năm 1970, trú tại: Tổ dân phố 5, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt

5. An Gi, sinh năm 1998, trú tại: Làng Đ, thị trấn K, huyện M, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt 

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa thì nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 13/6/2023 Nguyễn Trọng C nhắn tin qua ứng dụng Zalo cho Ninh Đan H với nội dung: “Đi phố lấy đồ về chơi, em có tham gia không?” tức lấy ma túy về để cùng sử dụng thì H hẹn “Ngày mai đi sửa máy tính rồi mua ma túy” thì C đồng ý. Đến khoảng 12 giờ 30 phút ngày 14/6/2023 Nguyễn Trọng C tiếp tục nhắn tin cho Ninh Đan H với nội dung: “Em đi phố nữa không? Em chạy xuống nhà anh lấy xe và tiền để mua ma túy” thì H nói: “Anh đi cùng với em” thì C đồng ý. Sau đó Nguyễn Trọng C điều khiển xe mô tô mang Biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx đến chở Ninh Đan H đi đến cửa hàng Vũ Cường Computer địa chỉ: 57 G, thành phố P, tỉnh Gia Lai để sửa máy tính. Sau khi để CPU tại cửa hàng sửa máy tính thì Ninh Đan H sử dụng điện thoại gọi đến số điện thoại: 0961.338.xxx gặp người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch đã cho H số điện thoại trước đây) để mua ma túy đá với số tiền 1.000.000 đồng thì người đàn ông này đồng ý bán và hẹn đến khu vực Nhà Bè, đường Lý Thái Tổ thuộc phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai để giao ma túy. Sau đó Nguyễn Trọng C điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát:

81E1 - xxxxx chở Ninh Đan H đến khu vực đã hẹn thì Nguyễn Trọng C góp số tiền 600.000 đồng, còn Ninh Đan H góp số tiền 400.000 đồng để mua ma túy. Sau khi mua ma túy Nguyễn Trọng C cùng Ninh Đan H đi về nhà nghỉ “Thúy H1” thì gặp bà Nguyễn Thị H (mẹ ruột của Ninh Đan H làm chủ) thì H đi vào nhà, còn C điều khiển xe đi về nhà. Khoảng hơn 15 giờ cùng ngày Nguyễn Trọng C điều khiển xe mô tô biển số 81E1 - xxxxx đến nhà nghỉ gặp bà Nguyễn Thị H1 thuê phòng 105 để nghỉ. Một lúc sau Nguyễn Ngọc Th (điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát: 81B1 - xxxxx chở Lý Văn H1 đến gặp bà Nguyễn Thị H1 cùng thuê phòng 106 để chờ bạn. Một lúc sau bà Nguyễn Thị H đi đến Trung tâm thương mại huyện M để dọn hàng, thì H đưa cho C gói ma túy và bộ dụng cụ sử dụng ma túy để C mang ra khu vực phía sau nhà nghỉ, tại đây C đổ ma túy vào ống thủy tinh, còn H sử dụng quẹt ga đốt ống thủy tinh rồi cả hai cùng sử dụng ma túy rồi C về phòng 105 đã thuê để nghỉ. Sau đó Ninh Đan H gặp Nguyễn Ngọc Th thì Th rủ H sử dụng ma túy nhưng H không đồng ý sử dụng. Một lúc sau thì Ninh Đan H đi gặp Nguyễn Trọng C thì H nói với C: “Th đang ở 3 phòng số 106, nó mới gọi em vào sử dụng ma túy với nó mấy hơi, nó đi với ai em không biết ” thì C trả lời “Tụi nó có mời em vào sử dụng ma túy thì để anh qua mời lại”. Sau đó Nguyễn Trọng C cầm bộ dụng cụ sử dụng ma túy của Ninh Đan H và gói ma túy đá mà H và C mua chung đã sử dụng một ít trước đó đi đến phòng 106 rủ Nguyễn Ngọc Th và Lý Văn H1 cùng sử dụng thì Th, H1 đồng ý. Lúc này Nguyễn Trọng C lấy bộ dụng cụ sử dụng ma túy và gói nilon chứa ma túy đá ra bỏ trên giường lấy quẹt ga để hơ nóng ống thủy tinh có một đầu uốn cong, một đầu phình to rồi lấy 01 dao lam của Nguyễn Ngọc Th để trên bàn từ trước cắt gói nilon chứa ma túy đổ vào ống thủy tinh rồi C cùng với Th và H1 sử dụng. Đến khoảng 16 giờ 30 phút cùng ngày Công an huyện M bắt quả tang Nguyễn Trọng C, Lý Văn H1, Nguyễn Ngọc Th đang thực hiện hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đồng thời bắt giữ Ninh Đan H có hành vi cung cấp ma túy và bộ sử dụng ma túy để C, H1 và Th sử dụng. Qua test nhanh C, Th, H1 và H đều dương tính với chất ma túy, loại Methamphetamine.

Tại kết luận giám định số 560 ngày 22/6/2023 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Gia Lai kết luận:

- Chất màu trắng bám dính trong 01 gói ni lon hở trong bì công văn ghi “M1” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine do lượng mẫu ít không cân được khối lượng.

- Chất màu nâu, trắng bám dính trong ống thủy tinh uốn cong, phình to và chất màu trắng bám dính trong ống nhựa, một đầu kín, một đầu vát nhọn trong bì công văn ghi “M2” niêm phong gửi giám định là ma túy, loại Methamphetamine do lượng mẫu ít không cân được khối lượng.

- Ống thủy tinh thẳng, trong bì công văn ghi “M2” niêm phong gửi giám định có bám dính ma túy, loại Methamphetamine do lượng mẫu ít không cân được khối lượng.

* Vật chứng của vụ án - 01 (một) gói ni lon và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “M1” và “ Số 560/PC/PC09, ngày 22 tháng 6 năm 2023’ tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đức H và Triệu Tín N.

- 01 (một) đoạn ống thủy tinh thẳng, 01 đoạn ống thủy tinh uống cong, phình to; 01 (một) đoạn ống nhựa, một đầu kín, một đầu vát nhọn và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 (một) bì công văn, có đặc điểm mặt trước ghi “M2” và “ Số 560/PC/PC09, ngày 22 tháng 6 năm 2023’ tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự, nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI * PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đức Huy và Triệu Tín N.

- Thu giữ của bị can Nguyễn Trọng C:

4 + 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, kiểu xe Exciter, màu xanh - trắng, Biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx.

+ 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “WHITE HORSE” (đã qua sử dụng).

- Thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc Th:

+ 01 (một) xe mô tô Biển kiểm soát: 81B1 - xxxxx.

+ 01 (một) chai nhựa màu xanh cao 21cm, nhãn hiệu Pessi, nắp chai có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm.

+ 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng dài 4cm, đường kính 0,5cm.

+ 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy S9, màu đen (đã qua sử dụng).

+ 01 (một) lưỡi dao lam, kích thước (4x2,5) cm (đã qua sử dụng).

- Thu giữ của bị cáo Ninh Đan H:

02 (hai) cái quẹt ga đã qua sử dụng, 01 (một) cái màu đỏ bị mất phần chắn lửa và một cái màu đỏ - trắng; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy Galaxy Note 9, màu đen (đã qua sử dụng).

- Thu giữ của bị cáo Lý Văn H1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh (đã qua sử dụng).

Tại bản Cáo trạng số 38/CT-VKS, ngày 05 tháng 11 năm 2023, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai đã truy tố các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Đề nghị: Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng C từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) năm tù.

Xử phạt bị cáo Ninh Đan H từ 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù đến 08 (tám) năm tù.

Xử phạt bị cáo Lý Văn H1 từ 08 (tám) năm tù đến 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù.

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 255, điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52, điểm b khoản 2 Điều 53, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật Hình sự:

5 Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Th từ 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù đến 09 (chín) năm tù.

Về vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) đoạn ống thủy tinh thẳng, 01 (một) đoạn ống thủy tinh uốn cong, phình to; 01 (một) đoạn ống nhựa, một đầu kín, một đầu vát nhọn và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 (một) bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “M2” và “ Số 560/PC/PC09, ngày 22 tháng 6 năm 2023”, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đức Huy và Triệu Tín N.

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “WHITE HORSE” (đã qua sử dụng) - 01 (một) chai nhựa màu xanh cao 21cm, nhãn hiệu Pessi, nắp chai có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm;

- 01 (một) chai nhựa màu trắng cao 23cm, nắp chai màu trắng có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm, trong đó có một lỗ còn gắn một đoạn ống hút màu trắng dài 16cm, đường kính 0,5cm;

- 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng dài 4cm, đường kính 0,5cm;

- 01 (một) lưỡi dao lam, kích thước (4x2,5) cm (đã qua sử dụng);

- 02 (hai) cái quẹt ga đã qua sử dụng, 01 (một) cái màu đỏ bị mất phần chắn lửa và một cái màu đỏ - trắng.

- Tịch thu, sung quỹ Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy Galaxy Note 9, màu đen (đã qua sử dụng).

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc Th và Lý Văn H1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh (đã qua sử dụng) và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy S9, màu đen (đã qua sử dụng).

Ý kiến của người bào chữa cho bị cáo Lý Văn H1: Thống nhất với Đại diện Viện kiểm sát về tội danh đối với bị cáo Lý Văn H1. Tuy nhiên, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo H1 vì bị cáo có trình độ văn hóa thấp, nhận thức pháp luật còn hạn chế, là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn.

Tại phiên tòa các bị cáo Nguyễn Trọng C, Nguyễn Ngọc Th, Lý Văn H1, Ninh Đan H thừa nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu, các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

Những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có ý kiến gì.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Điều tra viên Công an huyện M, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội và tội danh: Xét tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung cáo trạng đã nêu. Lời khai của các bị cáo phù hợp với lời khai của những người tham gia tố tụng khác và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, vì vậy có đủ cơ sở xác định hành vi phạm tội của các bị cáo như sau: Vào khoảng 12 giờ 30 phút ngày 14/6/2023 Nguyễn Trọng C điều khiển xe mô tô mang biển kiểm soát: 81E1 - xxxxx đến chở Ninh Đan H đi đến đến khu vực Nhà Bè, đường Lý Thái Tổ thuộc phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai mua ma túy đá loại Methamphetamine của một người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) với số tiền 1.000.000 đồng để sử dụng. Sau khi mua ma túy Nguyễn Trọng C cùng Ninh Đan H đi về nhà nghỉ “Thúy H1” của bà Nguyễn Thị H (là mẹ ruột của Ninh Đan H). Lợi dụng lúc bà Nguyễn Thị H đi đến Trung tâm thương mại huyện M dọn hàng hóa thì Ninh Đan H đưa cho Nguyễn Trọng C bộ dụng cụ sử dụng ma túy để C mang ra phía sau nhà nghỉ, tại đây C đổ ma túy vào ống thủy tinh, còn H sử dụng quẹt ga đốt ống thủy tinh rồi cả hai cùng sử dụng ma túy rồi C về phòng 105 đã thuê để nghỉ. Một lúc sau Ninh Đan H đến gặp Nguyễn Trọng C nói Nguyễn Ngọc Th thuê phòng 106. Sau đó Nguyễn Trọng C mang bộ sử dụng ma túy và ma túy đến phòng 106 rủ Nguyễn Ngọc Th và Lý Văn H1 sử dụng ma túy thì Th và H1 đồng ý. Sau đó Nguyễn Trọng C, Nguyễn Ngọc Th và Lý Văn H1 cùng nhau sử dụng ma túy tại phòng 106 của H1 và Th thuê thì bị C an huyện M bắt quả tang về hành vi tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy.

[3] H1nh vi đó của các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th đã phạm vào tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại điểm b khoản 2 Điều 255 Bộ luật hình sự. Vì vậy cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M, tỉnh Gia Lai là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

7 [4] Về tính chất, mức độ phạm tội: H1nh vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy. Chất ma túy là chất gây nghiện, có tính chất kích thích thần kinh, việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy không những gây tác hại lớn đến sức khỏe của người sử dụng, mà còn là nguyên nhân gây phát sinh các loại tệ nạn khác trong xã hội, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa phương. Đây là vụ án đồng phạm nhưng giản đơn trong đó bị cáo C đóng vai trò là người khởi xướng việc tổ chức sử dụng ma túy, bị cáo H tuy không cùng sử dụng nhưng là đồng phạm cùng C chuẩn bị ma túy và công cụ sử dụng, bị cáo H1 và bị cáo Th là người tham gia tích cực, khi được C rủ thì đã sử dụng phòng của mình thuê để làm địa điểm cùng nhau sử dụng ma túy.

[5] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[6] Bị cáo Nguyễn Ngọc Th có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản” chưa được xóa án tích, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là Tái phạm nguy hiểm theo quy định tại điểm b khoản 2 điều 53 của Bộ luật hình sự nên bị cáo Th phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự "Tái phạm nguy nhiểm" quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự.

[7] Các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H và Lý Văn H1 phạm tội không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[8] Các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo H1 là người dân tộc thiểu số sinh sống ở địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định ở khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự cho bị cáo H1.

[9] Về nhân thân: Các bị cáo Nguyễn Trọng C, Lý Văn H1, Nguyễn Ngọc Th có nhân thân xấu. Bị cáo Th nhiều lần phạm tội, bị cáo H1 đã từng bị kết án đã được xóa án tích, bị cáo C, H1 là đối tượng nghiện ma túy đã được đưa đi cai nghiện. Bị cáo Ninh Đan H chưa có tiền án, tiền sự, lần đầu phạm tội. Các bị cáo H1, C, Th đang nuôi con nhỏ.

[10] Về hình phạt: Các bị cáo đã vi phạm pháp luật hình sự nên phải chịu hình phạt theo quy định. Các bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng nên xét đề nghị của Kiểm sát viên áp dụng hình phạt tù cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian là phù hợp. Tuy nhiên cần xem xét quyết định mức hình phạt trên cơ sở đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đảm bảo tác dụng răn đe, giáo dục đối với từng bị cáo cũng như đảm bảo tác dụng phòng ngừa chung, bên cạnh đó cũng xem xét điều kiện hoàn cảnh gia đình của các bị cáo để xem xét giảm nhẹ một phần so với đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát thể hiện tính nhân đạo của pháp luật.

[6] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo đều không có công việc, thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

8 [7] Đối với bà Nguyễn Thị H: Quá trình điều tra xác định bà Nguyễn Thị H (là chủ nhà nghỉ “Thúy H1”) là người trực tiếp cho Nguyễn Trọng C thuê phòng 105, cho Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th thuê phòng 106 của nhà nghỉ “Thúy H1” và tại nhà nghỉ có các biển thông báo cấm sử dụng chất cấm theo quy định. Lợi dụng lúc bà Nguyễn Thị H đi đến Trung tâm thương mại huyện M dọn hàng hóa các bị cáo đã sử dụng phòng 106 của nhà nghỉ để tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Do đó hành vi của bà Nguyễn Thị H không cấu thành tội: “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại quy định Điều 255 Bộ luật Hình sự.

[8] Đối với số điện thoại 0961338xxx mà bị can Ninh Đan H khai nhận đã liên lạc với người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) để mua ma túy. Quá trình điều tra xác định số điện thoại 0961338xxx có chủ thuê báo của Phạm Thị Khánh H (Sinh ngày: 22/01/1996) trú tại số 59 Nguyễn Trãi, phường Y, thành phố P, tỉnh Gia Lai, hiện Phạm Thị Khánh H không có mặt tại địa phương, đi đâu, làm gì không rõ. Mặt khác đối với đối tượng người đàn ông (không xác định được nhân thân, lai lịch) đã bán ma túy cho bị cáo Ninh Đan H tại đoạn đường Lý Thái Tổ, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT - Công an huyện M xác định địa điểm mua bán ma túy tại khu vực Nhà Bè, đường Lý Thái Tổ, phường Yễn Đỗ, thành phố P không thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT - Công an huyện M. Do đó, ngày 11/10/2023 Cơ quan CSĐT - Công an huyện M đã ban hành văn bản chuyển hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy” cùng các tài liệu liên quan đến Cơ quan CSĐT - Công an thành phố P để điều tra, xử lý theo thẩm quyền.

[9] Về vật chứng vụ án:

+ Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) đoạn ống thủy tinh thẳng, 01 (một) đoạn ống thủy tinh uốn cong, phình to; 01 (một) đoạn ống nhựa, một đầu kín, một đầu vát nhọn và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 (một) bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “M2” và “ Số 560/PC/PC09, ngày 22 tháng 6 năm 2023”, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đức Huy và Triệu Tín N.

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “WHITE HORSE” (đã qua sử dụng) - 01 (một) chai nhựa màu xanh cao 21cm, nhãn hiệu Pessi, nắp chai có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm;

- 01 (một) chai nhựa màu trắng cao 23cm, nắp chai màu trắng có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm, trong đó có một lỗ còn gắn một đoạn ống hút màu trắng dài 16cm, đường kính 0,5cm;

- 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng dài 4cm, đường kính 0,5cm;

9 - 01 (một) lưỡi dao lam, kích thước (4x2,5) cm (đã qua sử dụng);

- 02 (hai) cái quẹt ga đã qua sử dụng, 01 (một) cái màu đỏ bị mất phần chắn lửa và một cái màu đỏ - trắng.

+ Tịch thu, sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy Galaxy Note 9, màu đen (đã qua sử dụng);

- Đối với 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy S9, màu đen (đã qua sử dụng) của bị cáo Nguyễn Ngọc Th và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh (đã qua sử dụng) của bị cáo Lý Văn H1 không sử dụng vào việc phạm tội nên cần trả lại cho các bị cáo.

[10] Về án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với các bị cáo Nguyễn Trọng C, Ninh Đan H và Lý Văn H1. Áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Lý Văn H1:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng C 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2023).

Xử phạt bị cáo Ninh Đan H 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2023).

Xử phạt bị cáo Lý Văn H1 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2023).

- Áp dụng: Điểm b khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52; điểm b khoản 2 Điều 53, Điều 38, Điều 58 của Bộ luật hình sự đối với bị cáo Nguyễn Ngọc Th:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc Th 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 14/6/2023).

3. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật hình sự; Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) đoạn ống thủy tinh thẳng, 01 (một) đoạn ống thủy tinh uốn cong, phình to; 01 (một) đoạn ống nhựa, một đầu kín, một đầu vát nhọn và vỏ bao gói được niêm phong trong 01 (một) bì công văn, có đặc điểm: mặt trước ghi “M2” và “ Số 560/PC/PC09, ngày 22 tháng 6 năm 2023”, tại mép dán mặt sau có các hình dấu tròn của Phòng kỹ thuật hình sự nội dung “CÔNG AN TỈNH GIA LAI*PHÒNG KỸ THUẬT HÌNH SỰ” và các chữ ký ghi họ tên Nguyễn Minh Tâm, Nguyễn Đức Huy và Triệu Tín N.

- 01 (một) vỏ bao thuốc lá hiệu “WHITE HORSE” (đã qua sử dụng)

- 01 (một) chai nhựa màu xanh cao 21cm, nhãn hiệu Pessi, nắp chai có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm;

- 01 (một) chai nhựa màu trắng cao 23cm, nắp chai màu trắng có đục 02 lỗ có đường kính bằng nhau 0,5cm, trong đó có một lỗ còn gắn một đoạn ống hút màu trắng dài 16cm, đường kính 0,5cm;

- 01 (một) đoạn ống nhựa màu trắng dài 4cm, đường kính 0,5cm;

- 01 (một) lưỡi dao lam, kích thước (4x2,5) cm (đã qua sử dụng);

- 02 (hai) cái quẹt ga đã qua sử dụng, 01 (một) cái màu đỏ bị mất phần chắn lửa và một cái màu đỏ - trắng.

+ Tịch thu, sung quỹ Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy Galaxy Note 9, màu đen (đã qua sử dụng);

+ Trả lại tài sản cho các bị cáo không sử dụng vào việc phạm tội cụ thể:

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Ngọc Th: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, kiểu máy S9, màu đen (đã qua sử dụng);

- Trả lại cho bị cáo Lý Văn H1: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Realme, màu xanh (đã qua sử dụng).

(Đặc điểm vật chứng theo Biên bản giao, nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 30/11/2023 giữa Công an huyện M với Chi cục Thi hành án dân sự huyện M).

4. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án:

Buộc các bị cáo Nguyễn Trọng Công, Ninh Đan H, Lý Văn H1 và Nguyễn Ngọc Th mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Thời hạn kháng cáo: Trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (19/01/2024) bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm. Đối với người vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính kể từ ngày họ nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 02/2024/HS-ST

Số hiệu:02/2024/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mang Yang - Gia Lai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/01/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về