Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 80/2023/HS-ST NGÀY 18/04/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 4 năm 2023 tại Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 41/2023/TLST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 63/2023/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 3 năm 2023 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Minh Chí C; Giới tính: Nam; Sinh năm 1993 tại tỉnh Đồng Nai; Nơi thường trú: Tổ 2, Ấp 4, xã T, huyện Đ, tỉnh Đồng Nai; Nơi cư trú: Không có nơi cư trú nhất định; Nghề nghiệp: Công nhân; Trình độ văn hóa: 03/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Công giáo; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn K và bà Lê Thị Đ; Bị cáo chưa có vợ con; Tiền sự: Không;

Tiền án: Ngày 25/9/2013 bị Toà án nhân dân huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai xử phạt 4 tháng 23 ngày tù về tội “trộm cắp tài sản” và trả tự do tại phiên Toà, qua xác minh bị cáo chưa thi hành 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 03/9/2022. (có mặt) Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1/ Ông Nguyễn Văn N, sinh năm 2001; Địa chỉ: Xóm A, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định (vắng mặt) 2/ Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 2004 (vắng mặt) Địa chỉ: Xóm 1, thôn H, xã B, huyện T, tỉnh Bình Định.

3/ Ông Lê Công S, sinh năm 1994; Địa chỉ: Thôn Đ, xã Đ, huyện Đ, tỉnh Quảng Nam (vắng mặt)

 NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào lúc 00 giờ 30 phút ngày 03/9/2022, Tổ tuần tra 363, Công an huyện Bình Chánh phối hợp Công an xã Đa Phước tiến hành kiểm tra Nguyễn Minh Chí C đang điều khiển xe gắn máy chở theo sau Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn H trên xe mô tô biển số 92E1-252xxxtại trước địa chỉ A1/4 Ấp 1, xã Đ, huyện B. Qua kiểm tra, Công an phát hiện trong túi quần bên phải, phía trước của C đang mặc có 01 gói nylon chứa tinh thể màu trắng và 01 gói nylon chứa nhiều mảnh vụn viên nén màu hồng, C khai nhận đây là ma túy loại khay và thuốc lắc của C dùng để sử dụng cho bản thân. Lực lượng Công an tiến hành thu giữ vật chứng và đưa C về trụ sở Công an xã Đ, huyện B lập biên bản bắt người phạm tội quả tang chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh để điều tra xử lý.

Bản kết luận giám định số 5078/KL-KTHS ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an Thành Phố Hồ Chí Minh kết luận: 01 gói nylon chứa chứa tinh thể màu trắng (m1) = 0,5248 gam là ma túy ở thể rắn, loại Ketamine; 01 gói nylon chứa nhiều mảnh vụn của viên nén màu hồng (m2) = 0,4835 gam là ma túy ở thể rắn, loại MDMA.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh, Nguyễn Minh Chí C khai nhận như sau: Vào tối ngày 02/9/2022, C, N và H cùng nhậu tại quán Cánh Đồng Hoa, xã Phong Phú, Bình Chánh. Đến khoảng 19 giờ 00 phút cùng ngày thì nhậu xong, cả ba đều thống nhất đến 20 giờ 00 phút sẽ tụ tập lại tại quán Karaoke Cây Điệp, xã Quy Đức, huyện Bình Chánh để hát Karaoke nhưng không bàn bạc gì về việc sử dụng trái phép chất ma túy. Sau đó, C sử dụng điện thoại gọi cho một người tên Thiện (C không rõ nhân thân lai lịch) hỏi mua 01 (một) gói ma túy khay với giá 1.000.000 đồng và 02 (hai) viên thuốc lắc với giá 500.000 đồng. Thiện đồng ý bán, hẹn C giao dịch tại gần quán Karaoke O, Quốc lộ 50, xã P, huyện B. C điều khiển xe gắn máy biển số 92E1-252xxxđi tới điểm hẹn và gặp được Thiện, C đưa cho Thiện 1.500.000 đồng và mua 01 (một) gói nylon ma túy khay cùng 01 (một) gói nylon chứa 02 (hai) viên nén thuốc lắc màu hồng. C cất số ma túy vừa mua được vào túi quần đang mặc rồi điều khiển xe gắn máy đi đến một tiệm cầm đồ trên đường Quốc lộ 50 (C không nhớ rõ địa chỉ) và cầm điện thoại di động của C với giá 1.000.000 đồng. Sau đó, C chạy xe đến quán Karaoke Cây Điệp, xã Quy Đức để gặp N và H lúc 20 giờ 00 như đã hẹn. Cả ba người cùng vào thuê phòng 128 để hát Karaoke, tại đây C đã lấy ra 01 viên thuốc lắc đưa cho N chia để tất cả cùng sử dụng. C và H sử dụng ¼ viên thuốc lắc, N cũng sử dụng ½ viên thuốc lắc do C cung cấp. Ngoài ra, C cũng đổ ma túy khay ra đĩa và kẻ thành từng đường nhỏ, C và N mỗi người sử dụng 02 đường ma túy khay, H không sử dụng ma túy khay. Đến khi hát xong, cả 03 người cùng tính tiền phòng tổng cộng 1.800.000 đồng (mỗi người hùn trả 600.000 đồng) và ra về, riêng C ở lại sau cùng và cất giữ số ma túy còn dư (01 gói nylon chứa ma túy khay còn dư và 01 gói nylon chứa mảnh vụn của 01 viên nén màu hồng đã bị bể vỡ) vào trong túi quần phía trước bên phải C đang mặc với mục đích để sử dụng cho bản thân. Sau đó, C điều khiển xe máy biển số 92E1-252xxxchở N và H về nhà. Trên đường về, khi cả ba người đi cùng 1 xe mô tô (vi phạm luật giao thông đường bộ) khi đi đến trước địa chỉ A1/4 ấp 1, xã Đ, huyện B thì bị Công an dừng xe, kiểm tra phát hiện việc C cất giữ ma túy nên đã lập biên bản và đưa tất cả về trụ sở để làm việc.

Nguyễn Minh Chí C khai C cất giữ số ma túy mà Công an phát hiện, bắt quả tang C vào ngày 03/9/2022 mục đích là để sử dụng cho bản thân C. C mua ma túy chỉ một mình, không có ai khác hùn tiền hay tham gia cùng mua. C, N, H không bàn bạc về việc sử dụng ma túy tại quán Karaoke Cây Điệp. N và H cũng không biết C mang theo ma túy tới quán cho đến khi C lấy ma túy ra để cả ba người sử dụng. Việc C tàng trữ số ma túy còn dư sau khi rời Karaoke C thì H và N cũng không hay biết. Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn H khai nhận phù hợp với lời khai của Nguyễn Minh Chí C.

Cáo trạng số 58/CT-VKSBC ngày 21/02/2023 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố bị cáo Nguyễn Minh Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (đã sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Bị cáo Nguyễn Minh Chí C khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đã truy tố. Bị cáo thành khẩn khai báo và có thái độ ăn năn hối cải. Bị cáo không tranh luận và lời nói sau cùng bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Minh Chí C về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249 và điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) xử phạt bị cáo từ 3 năm đến 4 năm tù. Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong bên trong là ma túy còn lại sau giám định; Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe máy có biển số 92E1-252xx, số khung: RLCS5C6K0DY110628, số máy: 5C6K-110629; Trả lại cho ông Nguyễn Văn H 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei cùng 01 sim cắt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an huyện Bình Chánh, điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh, kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ thu thập được và kết quả tranh luận tại phiên tòa, có đủ căn cứ kết luận hành vi phạm tội cụ thể của bị cáo như sau:

Ngày 03/9/2022 tại trước địa chỉ A1/4 Ấp 1, xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh. C đã có hành vi tàng trữ 0,5248 gam ma túy ở thể rắn, loại Ketamine và 0,4835 gam ma túy ở thể rắn, loại MDMA nhằm mục đích sử dụng thì bị bắt quả tang. Căn cứ Điều 4 Nghị định số 19/2018/NĐ-CP ngày 02 tháng 02 năm 2018 của Chính Phủ quy định về việc tính tổng khối lượng hoặc thể tích chất ma túy tại một số điều của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, qua đó xác định tổng tỷ lệ phần trăm về khối lượng của Ketaminevà MDMA thu giữ của Nguyễn Minh Chí C là 12,294% (thuộc trường hợp dưới 100%), chưa đủ căn cứ truy tố đối với C về hành vi tàng trữ 02 chất ma túy theo điểm n khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Như vậy có đủ căn cứ để kết luận bị cáo Nguyễn Minh Chí C đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Quá trình điều tra xác định C, N và H đều là các đối tượng nghiện ma tuý. C khai ngày 02/9/2022, cho N và H cùng sử dụng ma tuý tại quán Karaoke, tuy nhiên tại thời điểm các đối tượng sử dụng ma túy Công an không bắt quả tang, không thu giữ được tờ tiền mệnh giá 10.000.000 đồng, thẻ nhựa và đĩa là những công cụ các đối tượng sử dụng vào việc sử dụng ma tuý. Tài liệu test chất ma túy sử dụng ma túy chưa đảm tính khách quan của thuộc tính chứng cứ. Hiện duy nhất lời khai các đối tượng thể hiện sự việc trên nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tách ra tiếp tục điều tra về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý” của C khi nào đủ căn cứ xử lý sau.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo có một bản án chưa được xóa án tích nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là tái phạm được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Tuy nhiên quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải nên Hội đồng xét xử căn cứ điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4] Đối với Nguyễn Văn N và Nguyễn Văn H không biết việc C cất giấu ma túy để sử dụng nên Cơ quan cảnh sát điều tra không xử lý N và H với vai trò đồng phạm là có căn cứ.

[5] Đối với đối tượng tên Thiện bán ma túy cho C chưa xác định được lai lịch, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh tiếp tục xác minh, khi làm rõ xử lý sau.

[6] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) bìa thư niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Chí C, Trần Hà Phương T (người chứng kiến), Đặng Xuân H (Điều tra viên), Trung tá Nguyễn Quốc T (phó trưởng công an xã) và hình dấu của Công an xã Đa Phước; bên trong chứa ma túy còn lại sau giám định là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 01 xe máy mang biển số 92E1-252xx, số khung: RLCS5C6K0DY110628, số máy: 5C6K-110629. Qua xác minh biển số 92E1- 252.xx có số khung: RLCS1FC30FY125714, số máy: 1FC3125728 do ông Lê Công S đứng tên chủ sở hữu, tuy nhiên qua xác minh cho thấy hiện ông S không có mặt tại địa phương, không rõ làm gì, ở đâu. Tiến hành xác minh biển số 92E1-252xxx không có trong cơ sở dữ liệu vật chứng, kết luận giám định không đủ cơ sở kết luận biển số 92E1-252xxxlà thật hay giả. Đối với số khung, số máy xe mô tô thu giữ qua giám định kết luận không thay đổi và qua xác minh nguồn gốc không tìm thấy dữ liệu tra cứu. Nguyễn Minh Chí C khai nhận mua chiếc xe máy trên vào giữa năm 2019 với giá 3.000.000 đồng từ một người tên N (không rõ lai lịch) nhưng không có giấy tờ gì chứng minh việc mua bán này. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bình Chánh đã đăng báo truy tìm chủ sở hữu tuy nhiên chưa có kết quả. Xét thấy chiếc xe này bị cáo sử dụng làm phương tiện phạm tội và không được đăng ký hợp lệ nên tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Huawei cùng 01 sim cắt thu giữ của Nguyễn Văn H. Qua kiểm tra không liên quan gì đến hành vi phạm tội nêu trên nên trả lại cho Nguyễn Văn H.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Minh Chí C phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điềi 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017);

Xử phạt bị cáo Nguyễn Minh Chí C: 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/9/2022.

3. Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015 (Sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) bì thư niêm phong, bên ngoài có các chữ ký ghi tên Nguyễn Minh Chí C, Trần Hà Phương T (người chứng kiến), Đặng Xuân H (Điều tra viên), Trung tá Nguyễn Quốc T (phó trưởng công an xã) và hình dấu của Công an xã Đ, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh, bên trong là ma túy còn lại sau giám định.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước 01 xe máy có biển số 92E1-252xx, số khung: RLCS5C6K0DY110628, số máy: 5C6K-110629.

- Trả lại cho ông Nguyễn Văn H 01 (một) điện thoại di động hiệu Huawei cùng 01 sim cắt.

(Các vật chứng trên đang giữ tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh theo Biên bản giao nhận đồ vật, tài liệu, vật chứng ngày 10/02/2023 giữa Công an huyện Bình Chánh và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Chánh).

4. Áp dụng Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về án phí: Bị cáo Nguyễn Minh Chí C phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm nghìn) đồng.

5. Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

77
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 80/2023/HS-ST

Số hiệu:80/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/04/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về