Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2023/HS-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 77/2023/HS-ST NGÀY 09/08/2023 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Trong ngày 09 tháng 8 năm 2023 tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 75/2023/TLST-HS ngày 20 tháng 7 năm 2023 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2023/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2023 đối với bị cáo:

Lê Tuấn A; sinh năm: 1983 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi thường trú: Đường X, Phường Q, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: /(vô danh) và bà: Lê Thị Tuyết M; tiền án: 01 (Ngày 05/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện C Thành tỉnh Bến Tre xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 50/2017/HSST); tiền sự: Không; nhân thân: Ngày 03/7/2008 bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 03 năm tù về tội “Cướp giật tài sản” tại Bản án số 158/2008/HSST (Đã xóa án tích); bị bắt giữ ngày: 07/4/2023.

(Bị cáo có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 06/4/2023, tại trước nhà số 259 đường Tô Hiến Thành, Phường 14, Quận 10, Tổ tuần tra 363 - Công an Quận 10 phát hiện Lê Tuấn A điều khiển xe mô tô biển số 60B8-X có biểu hiện nghi vấn, nên tiến hành mời về trụ sở Công an Phường 14, Quận 10 để kiểm tra hành chính; qua kiểm tra, phát hiện và tạm giữ: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu (trong túi quần phía sau bên trái của Tuấn A đang mặc), A khai nhận số tinh thể không màu trên là ma túy tổng hợp, cất giữ để sử dụng cho bản thân. Công an Phường 14, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó chuyển Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Kết luận giám định số 3394/KL-KTHS ngày 14/4/2023 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hồ Chí Minh kết luận: 02 gói nylon chứa tinh thể không màu là ma túy ở thể rắn, có tổng khối lượng 0,5494g, loại Methamphetamine.

Quá trình điều tra xác định: Thông qua bạn bè xã hội, A biết C (không rõ nhân thân lai lịch) bán ma túy. Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 06/4/2023, Anh sử dụng tài khoản zalo liên hệ với C (không rõ nhân thân lai lịch) có tài khoản “Amin” có số thuê bao 0333.X.015 hỏi mua 500.000 đồng ma túy; sau đó C hẹn giao ma túy tại ngã ba Bắc Hải - Thành Thái để giao ma túy. Khoảng 18 giờ 00 cùng ngày, A đến tại khu vực ngã ba đường Thành Thái – Bắc Hải, Phường 14, Quận 10 thì C đưa cho A gói ma túy và lấy 500.000 đồng. Đây là lần thứ hai Tuấn A mua ma túy của C, lần thứ nhất cũng mua một gói ma túy từ C vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 05/4/2023 tại ngã ba đường Thành Thái – Bắc Hải với giá 500.000 đồng.

Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết định khởi tố điều tra đối với Lê Tuấn A về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Đối với các đối tượng tên C, người có tài khoản “Amin” có số thuê bao 0333.X.015; cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã gửi thông tin đến cơ quan viễn thông xác minh, tiếp tục truy xét; khi nào phát hiện, làm rõ và xử lý sau.

Tài sản, vật chứng thu giữ:

Đối với: 01 gói niêm phong bên trong có 0,4537g ma túy ở thể rắn, loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và Cán bộ điều tra (mẫu vật hoàn lại sau giám định); 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung có số thuê bao 0703.953.475 mà A sử dụng liên lạc mua ma túy; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Đối với: 01 xe mô tô gắn biển số 60B8-X thu giữ của A; qua giám định xe có số khung, số máy bị mài đục số, không xác định được số nguyên thủy; xác minh biển số 60B8-X là số đăng ký của xe mô tô hiệu Yamaha Exciter do ông Lê C1 đứng tên giấy đăng ký xe, hiện ông C1 đã chết và chiếc xe có biển số trên đã bán cho 01 người không rõ lai lịch; về phía A khai mua xe gắn biển số 60B8-X vào khoảng tháng 03/2022 với giá 11.000.000 đồng của một người đàn ông (không rõ nhân thân, lai lịch) để làm phương tiện đi lại, khi mua không làm giấy tờ; Công an Quận 10 đã tạm giữ lại.

Đối với: 01 chiếc điện thoại di động hiệu HUAWEI là tài sản cá nhân của Lê Tuấn A, không liên quan đến hành vi phạm tội. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã giao lại cho bà Lê Thị Tuyết M (mẹ của Tuấn A) quản lý theo yêu cầu của Anh.

Tại Cáo trạng số 69/CT-VKSQ10 ngày 20 tháng 7 năm 2023 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố:

Lê Tuấn A về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa hôm nay:

- Bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình như lời khai tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh công bố bản luận tội giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo đúng theo nội dung bản cáo trạng. Sau khi phân tích tính chất và hậu quả của vụ án đối với xã hội, sau khi nêu lên những tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (tái phạm), giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải) của bị cáo; đã đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1, 5 Điều 249; điểm h khoản 1 Điều 52, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) đối với bị cáo, xử phạt bị cáo: Lê Tuấn A từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù, phạt bổ sung đối với bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Về xử lý vật chứng và áp dụng biện pháp tư pháp: Đề nghị Hội đồng xét xử xử lý theo quy định của pháp luật.

- Ý kiến của bị cáo: Không có ý kiến tranh luận gì.

- Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo rất hối hận về hành vi của mình, mong Hội đồng xét xử khoan hồng, giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về những chứng cứ, tài liệu do Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên thu thập; do bị can, bị cáo, người tham gia tố tụng khác cung cấp đều thực hiện đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về những chứng cứ, tài liệu đã thu thập, cung cấp. Do đó, những chứng cứ, tài liệu trong vụ án đều hợp pháp.

[2] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng như đã nêu trên. Tại các bản tự khai, biên bản lấy lời khai, biên bản hỏi cung bị can mà bị cáo đã trình bày nội dung lời khai là hoàn toàn tự nguyện. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[3] Nhận định hành vi và điều khoản xét xử:

Tại Cơ quan Cảnh sát điều tra cũng như trước phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi của mình; qua lời khai nhận của bị cáo, đối chiếu với lời khai của người làm chứng, nội dung biên bản bắt người phạm tội quả tang, nội dung tin nhắn qua zalo, vật chứng thu giữ được, bản kết luận giám định về ma túy, cùng các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, Hội đồng xét xử đã có đủ cơ sở xác định bị cáo Lê Tuấn A cất giữ trái phép: 0,5494 gram Methamphetamine, nhằm mục đích để sử dụng, chiếu theo danh mục các chất ma túy và tiền chất ban hành theo Nghị định 57/2022/NĐ-CP ngày 25/8/2022 của Chính phủ thì đó là chất ma túy ở thể rắn và căn cứ vào chứng cứ thu thập được hiện tại chỉ có cơ sở xác định bị cáo thực hiện hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy 01 lần; do vậy, bị cáo Lê Tuấn A bị truy tố và xét xử về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Riêng đối với bị cáo tự khai nhận trước đó đã mua ma túy cho đối tượng C (không rõ nhân thân lai lịch) có tài khoản “Amin” có số thuê bao 0333.X.015 tại ngã ba đường Thành Thái – Bắc Hải với giá 500.000 đồng; nhưng quá trình điều tra chưa thu thập được chứng cứ nào khác chứng minh lời khai của bị cáo, định lượng số ma túy đã mua, nên chưa đủ cơ sở để xem xét trách nhiệm hình sự về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Lê Tuấn A trong lần mua ma túy này.

[4] Việc áp dụng hình phạt, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ:

Ma túy là mối hiểm họa cho gia đình và xã hội, nó đã lây lan và phát triển một cách nghiêm trọng, làm suy đồi và băng hoại nhân cách con người, là một trong những nguyên nhân dẫn đến các tội phạm hình sự khác; trong khi chính quyền nhân dân các cấp đang ra sức thực hiện mục tiêu 3 giảm: “Giảm ma túy, giảm mại dâm, giảm tội phạm”. Hành vi đó của bị cáo cho xã hội, đã xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội, đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm tại địa phương.

Về tình tiết tăng nặng: Ngày 05/9/2017 bị Tòa án nhân dân huyện C Thành tỉnh Bến Tre xử phạt 05 năm 06 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” tại Bản án số 50/2017/HSST, như vậy bị cáo đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội nghiêm trọng do cố ý, hành vi này là tái phạm theo quy định tại khoản 1 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017); nên bị cáo bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Về tình tiết giảm nhẹ: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Căn cứ vào khoản 5 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền nộp ngân sách Nhà nước do tái phạm.

[5] Về xử lý vật chứng và các biện pháp tư pháp khác:

Về xử lý vật chứng:

Đối với: 01 gói niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, (Mẫu vật hoàn lại sau gíam định); là vật lưu hành bất hợp pháp; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, tiêu hủy.

Đối với: 01 điện thoại di động hiệu Samsung (Số Imei: 357174097996294 và số thuê bao: 070X475); quá trình điều tra, xác định các tài sản trên là của Lê Tuấn A và sử dụng làm phương tiện để mua bán trái phép chất ma túy; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Đối với: 01 xe mô tô gắn biển số 60B8-X (số khung: RLCE55P10DY260094, số máy: 55P1-260109) (qua giám định xác định: số khung, số máy: Bị mài đục số, không xác định được số nguyên thủy); là vật lưu hành không hợp pháp và quá trình điều tra xác định là phương tiện dùng vào việc phạm tội; vậy căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước.

Về án phí sơ thẩm: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Lê Tuấn A phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

- Căn cứ vào điểm c khoản 1, 5 Điều 249; khoản 1 Điều 53; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Lê Tuấn A;

Xử phạt bị cáo Lê Tuấn A 01 (Một) năm 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 07/4/2023.

Phạt bổ sung bị cáo A 5.000.000 (Năm triệu) đồng nộp ngân sách Nhà nước.

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, tịch thu, tiêu hủy: 01 gói niêm phong (bên trong có chứa ma túy ở thể rắn loại Methamphetamine, bên ngoài có chữ ký của Giám định viên và cán bộ điều tra, (Mẫu vật hoàn lại sau gíam định).

- Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động hiệu Samsung (Số Imei: 357174097996294 và số thuê bao: 070X475) và 01 xe mô tô gắn biển số 60B8-X (loại xe: Hai bánh từ 50 – 175cm3, nhãn hiệu: YAMAHA, số loại: EXCITER, màu sơn: /, dung tích xi lanh: /, số khung: RLCE55P10DY260094, số máy: 55P1-260109) (qua giám định xác định: số khung, số máy: bị mài đục số, không xác định được số nguyên thủy).

(Tình trạng vật chứng theo Biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 20/7/2023 giữa Công an Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh và Chi cục Thi hành dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh).

- Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Buộc: Bị cáo chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000 (hai trăm ngàn) đồng.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án.

Thời hạn kháng cáo là 15 ngày; đối với bị cáo tính từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tàng trữ trái phép chất ma túy số 77/2023/HS-ST

Số hiệu:77/2023/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/08/2023
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về